Nguyên Nhân Của Hạn Chế Nguyên Nhân Khách Quan:


đã tích cực tập trung xây dựng hoàn chỉnh các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế kỹ thuật các mặt hàng DTQG đã tạo hành lang pháp lý tương đối rõ ràng, thuận lợi cho ngành DTNN nói chung, Cục DTNN khu vực Nghệ Tĩnh nói riêng đạt được những kết quả cao trong công tác quản lý DTQG.

- Công tác thanh tra, kiểm tra giám sát đã được các cơ quan quản lý nhà nước cũng như nội bộ các cơ quan quản lý trực tiếp hàng DTQG thực hiện quyết liệt. Nhiều cấp kiểm tra, thanh tra như: Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ Tài chính, Kiểm tra kiểm toán nội bộ Bộ Tài chính. Thanh tra Tổng cục Dự trữ Nhà nước mặc dù mới thành lập những cũng đã phát huy tích cực tham gia phối hợp với các Bộ thực hiện kiểm tra công tác tiếp nhận, sử dụng hàng dự trữ quốc gia tại địa phương.

- Lãnh đạo của Cục DTNN khu vực Nghệ Tĩnh chủ động trong triển khai mọi công việc quản lý theo đúng thẩm quyền. Đội ngũ công chức của Cục có trình độ chuyên môn khá cao, có tinh thần trách nhiệm trong mọi công việc được giao.

2.3.2 Một số hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1 Một số hạn chế

- Đến hết năm 2020, tổng mức DTQG so với GDP thì quy mô DTQG hiện nay chiếm khoảng 0,17% GDP rất thấp so với mục tiêu Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020 đã đề ra (mục tiêu đến năm 2020 đạt 1,5% GDP). Với tổng mức DTQG như hiện nay thì khi thiên tai, dịch bệnh diễn ra trên diện rộng và tình hình an ninh quốc phòng diễn biến phức tạp, khó lường thì khó có khả năng đáp ứng.

- Việc tham gia ý kiến vào các dự thảo quy định, sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách còn chưa được coi trọng đúng mức.

- Đội ngũ công chức của Cục DTNN khu vực Nghệ Tĩnh chậm được bổ sung nhất là đội ngũ lãnh đạo Chi cục DTNN, đội ngũ quản lý, tuổi đời bình quân cao; trong khi địa bàn hoạt động rộng, các điểm kho nằm rải rác trên hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và thường xuyên phải hứng chịu những hậu quả nặng nề của thiên tai, nhất là bão lũ gây khó khăn trong việc triển khai kế hoạch nhập, xuất hàng DTQG. Các


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

bộ phận Tài vụ quản trị, bộ phận Kỷ thuật bảo quản tại các Chi cục DTNN thuộc Cục DTNN khu vực Nghệ Tĩnh thường chỉ có 01 công chức nên ảnh hưởng đến thời gian, hiệu quả, chất lượng công việc được giao.

Đặc biệt công chức chuyên môn về CNTT tại các Chi cục DTNN không có, chủ yếu còn do công chức làm công tác tài chính kế toán kiêm nhiệm ảnh hưởng đến việc cập nhật số liệu trên các ứng dụng công nghệ thông tin, thống kê…

Hoàn thiện quản lý dự trữ quốc gia khu vực Nghệ Tĩnh - 10

- Trong công tác xuất gạo cứu trợ, hỗ trợ luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao, kịp thời của lãnh đạo UBND tỉnh. Tuy nhiên khi triển khai thực hiện vẫn còn một số hạn chế trong sự phối hợp với địa phương nhận hỗ trợ về việc thống kê đối tượng thụ hưởng, còn chưa phối hợp nhịp nhàng. Một số ít địa phương không mặn mà đối với việc nhận hàng cứu trợ, hỗ trợ do kinh phí cho việc tiếp nhận, phân phối từ địa điểm nhận hàng đến đối tượng sử dụng được bố trí từ ngân sách địa phương phê duyệt muộn, việc giao nhận đến các xã miền núi khó khăn trong vận chuyển trong khi UBND tỉnh công bố giá vận chuyển thấp hơn so với giá cả thị trường.

- Về giá mua thóc, gạo DTQG chịu ảnh hưởng của quy luật thị trường, chu kỳ biến động về giá cả thường nhanh và ngắn nhưng cơ chế điều hành chưa linh hoạt về giá mua trong từng thời điểm dẫn đến mất thời cơ, hoặc gây lãng phí ngân sách nhà nước.

- Về triển khai kế hoạch mua, bán gạo còn tồn tại hạn chế như: Đối với việc mua gạo mang tính thời vụ rất cao (chỉ mua nhập gạo được sản xuất vụ Đông Xuân, không mua gạo sản xuất vụ Hè Thu), giá cả biến động khó lường. Do đó việc triển khai lựa chọn nhà thầu theo hình thức đấu thầu rộng rãi làm kéo dài thời gian thời gian thực hiện kế hoạch mua, đánh mất cơ hội mua. Cụ thể: Trong thời gian qua, tại Cục DTNN khu vực Nghệ Tĩnh có nhiều doanh nghiệp đã trúng thầu cung cấp gạo DTQG kế hoạch năm 2020, tiến hành thương thảo hợp đồng nhưng từ chối hoàn thiện, ký kết hợp đồng đã làm cho Cục DTNN khu vực Nghệ Tĩnh nói riêng, Tổng cục DTNN nói chung gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội


của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thực hiện mục tiêu Luật DTQG đã đề ra. Đặc biệt là trong bối cảnh dịch bệnh covid-19 diễn biến khó lường. Tuy nhiên chế tài xử phạt đối với các trường hợp này là thu bảo đảm dự thầu theo quy định của Luật Đấu thầu là chưa đủ sức răn đe, chưa đủ ràng buộc trách nhiệm của nhà thầu trong việc cung cấp gạo DTQG. Các nhà thầu chấp nhận mất bảo đảm dự thầu để bán gạo cho bên thứ ba với giá cao hơn giá trúng thầu cung cấp gạo DTQG.

Đối với đấu giá bán gạo DTQG cũng gặp không ít khó khăn và vướng mắc do quy định phải lựa chọn tổ chức đấu giá trước khi thực hiện quy trình đấu giá, làm kéo dài thời gian, gây ảnh hưởng đến việc thu hồi vốn để mua hàng DTQG, đồng thời không phù hợp với mặt hàng đặc thù là gạo DTQG.

- Một số máy móc, trang thiết bị chuyên dùng, phục vụ công tác nhập, xuất, bảo quản còn thiếu so với định mức: Máy đo nồng độ khí N2, máy hút khí, thiết bị đo độ ẩm muối, máy khâu bao thóc, gạo, máy xay xát phòng kiểm nghiệm.... Trong sử dụng các trang thiết bị phục vụ công tác nhập, xuất, bảo quản: đối với cân bàn điện tử, do kho nhỏ lẻ thường xuyên di chuyển cân do đó thường sai lệch số đo các góc cân dẫn tới số lượng báo không trung thành, sự thay thế sửa chữa rất khó khăn do linh kiện, phụ tùng hiếm, giá thành rất cao. Máy đo nhanh thủy phần một số máy trang cấp không phù hợp, thao tác khó. Đối với máy đo nồng độ nitơ (N2) do đặc tính kỹ thuật của cảm biến chỉ có tuổi thọ khoảng 02 năm, nên sau 02 năm sử dụng sẽ tự hỏng phải thay thế cảm biến mới, trong khi đó loại cảm biến này lại không có bán trên thị trường mà chỉ đặt mua qua hãng sản xuất, do đó rất khó khăn khi thay thế.

- Những năm qua, công tác đầu tư XDCB, SCL đơn vị cũng đã được Tổng cục DTNN quan tâm phê duyệt thực hiện. Tuy nhiên, đối với Cục Nghệ Tĩnh hằng năm thực hiện nhiệm vụ nhập xuất tương đối nhiều. Trong khi với cơ sở vật chất là kho tàng phần lớn được xây dựng đã lâu, qua quá trình sử dụng lâu năm nên bị xuống cấp. Nguồn kinh phí đơn vị chủ động thực hiện cũng chỉ đáp ứng được phần nào việc gia cố, sửa chữa thường xuyên nhằm duy trì tài sản hiện có.


Nguồn vốn bố trí cho ĐTXD cơ bản giai đoạn vừa qua còn rất thấp, mới chỉ đạt 21% so với nhu cầu vốn đầu tư theo quy hoạch phê duyệt; nguồn vốn bố trí cho cải tạo, sửa chữa kho còn rất ít, chưa đáp ứng được như cầu đầu tư xây dựng kho tàng phục vụ nhiệm vụ được giao.

Hệ thống kho DTQG đã được quan tâm ĐTXD nhiều kho mới, tuy nhiên, việc đầu tư chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu nhập, xuất, bảo quản theo quy hoạch đã phê duyệt. Vì vậy, các bộ, ngành còn phải tận dụng nhiều kho cũ để chứa hàng DTQG. Do đó, hệ thống kho hiện nay còn phân tán, nhỏ lẻ, nhiều điểm kho có vị trí không thuận lợi về mặt giao thông.

- Hiện nay trên phần mềm quản lý hàng hóa, một số chứng từ kế toán như phiếu nhập kho, phiếu xuất kho chưa được cập nhật mẫu biểu theo chế độ kế toán hiện hành nên kế toán đơn vị vừa phải thao tác thủ công vừa phải cập nhật phần mềm nên đã ảnh hưởng rất lớn đến thời gian, tiến độ trong quá trình đơn vị thực hiện nhiệm vụ nhập, xuất hàng DTQG.

- Đối với công tác xuất cứu trợ, hỗ trợ: Thời gian từ khi rà soát, báo cáo Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định và thực hiện các thủ tục để xuất hàng còn kéo dài nên ảnh hưởng đến quá trình xuất cấp, giao nhận hàng. Bên cạnh đó, việc xuất hàng DTQG cho các địa phương thường thực hiện trong cùng thời điểm, số lượng tương đối lớn và diễn ra trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, địa hình giao gạo phần lớn là các huyện miền núi trong khi yêu cầu phải hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian ngắn nên việc thực hiện lựa chọn nhà thầu vận chuyển, bốc xếp... gấp gáp, lực lượng CBCC các đơn vị mỏng, bố trí kế hoạch giao nhận hàng còn gặp nhiều khó khăn.

Công tác phối hợp giữa các đơn vị DTQG với các địa phương nhận gạo hỗ trợ có lúc còn chưa đảm bảo tính kịp thời. Công tác rà soát đối tượng thụ hưởng chế độ hỗ trợ gạo tại một số địa phương còn chưa được chú trọng quan tâm, thiếu chính xác, dẫn đến lượng gạo DTQG hỗ trợ còn thừa, thiếu ảnh hưởng đến công tác phân bổ, phải thực hiện báo cáo điều chỉnh các lượng thừa, thiếu này.


- Công tác phê duyệt chi phí xuất gạo cứu trợ, hỗ trợ, viện trợ qua hai cấp tổng hợp, phê duyệt (cấp Tổng cục, Bộ Tài chính), có nhiều thời điểm không đủ đáp ứng cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ. Cục DTNN phải thực hiện hạch toán nợ các nhà thầu, chuyển sang năm sau thanh toán.

- Việc xác định trách nhiệm đối với chất lượng gạo DTQG vẫn còn hạn chế. Hiện nay, quản lý hoạt động dự trữ cũng như bảo quản hàng dự trữ có 4 cấp quản lý, tuy nhiên, trách nhiệm về số lượng và chất lượng cuối cùng vẫn thuộc về thủ kho, và cũng mới chỉ dừng lại ở mức làm hao hụt quá định mức, hay gạo DTQG bị hư hỏng không thể sử dụng hay xuất cứu trợ được. Đối với hàng DTQG bị suy giảm chất lượng so với yêu cầu chất lượng đầu ra vẫn chưa được xem xét và truy cứu trách nhiệm. Do đó, việc kiểm tra, kiểm soát quy trình, công tác bảo quản, chất lượng gạo dự trữ vẫn còn bị buông lỏng, chưa chặt chẽ.

- Công nghệ bảo quản gạo dự trữ vẫn còn thủ công, đơn giản, trang thiết bị bảo quản còn thô sơ, lạc hậu, chưa được đầu tư bài bản, thống nhất, chưa áp dụng khoa học công nghệ và máy móc vào công tác bảo quản, trong khi đó điều kiện nhiệt độ, thời tiết và khí hậu diễn biến bất thường ảnh hưởng đến chất lượng bảo quản hàng dự trữ... Mặt khác, hệ thống phòng cháy chữa cháy vẫn còn tự phát, chưa theo yêu cầu cũng như tiêu chuẩn phòng cháy, chữa cháy dẫn đến việc lãng phí ngân sách nhà nước mà vẫn không đảm bảo được an toàn hàng DTQG khi có thiên tai, hỏa hoạn xảy ra.

- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả: Một số cuộc thanh tra, kiểm tra lại xảy ra hiện tượng trùng lắp, chồng chéo các nội dung thanh tra, kiểm tra, các đơn vị được kiểm tra, trong khi đó còn nhiều nội dung thanh tra kiểm tra vẫn còn chưa đề cập tới hoặc còn kiểm tra sơ sài, dẫn đến hiện tượng vừa thừa vừa thiếu. Đội ngũ thanh tra còn thiếu và chưa đáp ứng được về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng công tác, do đó chất lượng thanh tra, kiểm tra chưa cao, số lượng các đơn vị, nội dung kiểm tra chưa nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu kiểm tra, giám sát, tham mưu cho lãnh đạo Cục công tác quản lý DTQG.


- Thực trạng máy móc thiết bị công nghệ thông tin của Cục như máy in, máy vi tính... phần nhiều đã cũ, thường xuyên phải khắc phục sửa chữa. Theo phân cấp, Cục không được mua sắm những thiết bị công nghệ thông tin này nên còn phụ thuộc nhiều vào số lượng máy móc mà Tổng cục DTNN trang cấp, tuy nhiên việc trang cấp này lại phụ thuộc vào sự đấu thầu thành công của Tổng cục. Trong thời gian chờ đợi đó, trường hợp các Chi cục trực thuộc có máy móc thiết bị hư hỏng không thể khắc phục sửa chữa được hoặc việc khắc phục sửa chữa chiếm chi phí lớn nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện nhiệm vụ được giao do thiếu máy móc sử dụng.

- Việc phân cấp cho các đơn vị thuộc Tổng cục còn nhiều hạn chế, đặc biệt là phân cấp trong lĩnh vực sửa chữa thường xuyên, không phân cấp cho Chi cục DTNN thuộc Cục làm chủ đầu tư các công trình sửa chữa, trong khi công chức chuyên môn của Cục về lĩnh vực ĐTXD chỉ có 02 đồng chí, các kho tàng, nhà cửa tại các Chi cục thường xuyên phải gia cố nhỏ lẻ.

2.3.2.2 Nguyên nhân của hạn chế Nguyên nhân khách quan:

- Hành lang pháp lý quản lý nhà nước còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của các Cục DTNN. Quy trình trình cấp có thẩm quyền bổ sung vốn mua tăng, mua bù hàng DTQG theo quy định mới của Luật DTQG phải qua nhiều cấp nên quá trình triển khai thực hiện kế hoạch, nhất là những mặt hàng mang tính thời vụ như gạo còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể: Nghị định số 93/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật DTQG, Thông tư số 145/2013/TT-BTC đã có quy định về cơ chế thưởng cho cán bộ thủ kho, đơn vị DTQG trong quản lý đã áp dụng biện pháp làm giảm hao hụt so với định mức, tuy nhiên Bộ Tài chính lại chưa có văn bản cụ thể hướng dẫn thực hiện Thông tư về vấn đề này, do đó Tổng cục DTNN và các đơn vị DTQG chưa áp dụng cơ chế này vào thực tiễn.

- Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hàng DTQG và định mức kinh tế-kỹ thuật đối với một số mặt hàng DTQG chậm ban hành hoặc đã ban hành hiện nay


không còn phù hợp với thực tế, thiếu cơ sở pháp lý cho công tác quản lý chất lượng hàng DTQG làm ảnh hưởng đến quá trình triển khai thực hiện kế hoạch đề ra. Còn có mặt hàng chưa xây dựng được quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, chưa có định mức thực hiện như (thiết bị khoan cắt), định mức một số danh mục như phí nhập, xuất muối ăn DTQG không đáp ứng được tình hình thực tế thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.

Một số quy định trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia chưa phù hợp với thực tiễn tại đơn vị như chỉ tiêu hạt bạc phấn tại QCVN 14: 2014/BTC- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thóc DTQG được ban hành theo Thông tư số 53/2014/TT- BTC ngày 24/4/2014 là 7% trong khi đó các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh do cơ cấu các giống lúa có tỷ lệ tinh bột cao, điều kiện canh tác khí hậu nắng nóng, mưa nhiều và thổ nhưỡng đất cho nên hàng năm mua thóc đạt được chỉ tiêu chất lượng hạt bạc phấn vô cùng khó khăn.

- Danh mục mặt hàng DTQG có tại Bộ, ngành, đơn vị hiện nay chưa đủ chủng loại so với quy định của Luật DTQG và Nghị định 94/2013/NĐ-CP; ngoài ra, về danh mục hàng DTQG chưa có loại thiết bị chuyên dụng phục vụ cho công tác chữa cháy rừng (loại máy bơm chữa cháy đang bảo quản hiện nay chỉ phục vụ cho việc chữa cháy trong dân sinh, khu công nghiệp... ở những nơi sẵn có nguồn nước, không phù hợp cho chữa cháy rừng là nơi xa nguồn nước, địa hình đồi núi); một số mặt hàng DTQG thực tế trong 5 năm qua có tần suất sử dụng thấp như muối ăn, nhà bạt, phao áo, phao tròn.

- Trong những năm qua, nguồn lực huy động cho DTQG có sự tăng đều qua các năm thể hiện ở giá trị tổng mức DTQG tăng bình quân 1,42%/năm;. Tuy nhiên, tổng mức DTQG đạt thấp hơn so với chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược DTQG đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2091/QĐ-TTg ngày 28/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ và chưa đảm bảo được tính chủ động đáp ứng các yêu cầu đột xuất, cấp bách trong tình huống thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh hoặc sự cố an ninh, quốc phòng xảy ra trên diện rộng.


- Mức bố trí NSNN chi cho mua tăng DTQG còn hạn chế. Mặc dù đã được Nhà nước, Chính phủ quan tâm; hàng năm đều bố trí tăng ngân sách nhà cho DTQG. Tuy nhiên, việc cân đối chi cho DTQG còn tùy thuộc vào cân đối chung của ngân sách nhà nước; chưa được cân đối theo mục tiêu đề ra. Đặc biệt đối với mua nhập thóc, hằng năm, đơn vị thực hiện mua thóc DTQG nhập kho theo phương thức mua trực tiếp rộng rãi của mọi đối tượng. Tuy nhiên, việc bố trí nguồn vốn mua thóc trong những năm gần đây chưa kịp thời, thường được thực hiện sau thời điểm mở của kho từ 5-7 ngày đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ mua của Cục DTNN khu vực Nghệ Tĩnh, đặc biệt là công tác thanh toán với đối tượng khách hàng là người dân khi đến bán thóc cho Cục DTNN khu vực Nghệ Tĩnh.

Nguyên nhân chủ quan:

Một là, chưa có trách nhiệm cao đối với việc tham gia ý kiến, kiến nghị đề xuất sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách phục vụ cho nhiệm vụ của đơn vị nói riêng, của ngành DTNN nói riêng. Chưa có hoặc còn thiếu kỹ năng đánh giá, tổng kết các khó khăn, vướng mắc mà còn có tư tưởng coi đó là nhiệm vụ trách nhiệm của cấp trên, vướng mắc đến đâu thì báo cáo cấp có thẩm quyền đến đó.

Hai là, việc thẩm tra hồ sơ dự thảo quy chuẩn của các Bộ ngành còn khó khăn, do chưa có điều kiện khảo sát thực tế tại các đơn vị các đơn vị sản xuất, bảo quản hàng để có thêm cơ sở đánh giá tính phù hợp của các các yêu cầu kỹ thuật, yêu cầu quản lý trong thực tiễn. Số liệu thống kê, báo cáo sử dụng kinh phí nhập, xuất, bảo quản hàng năm tại một số đơn vị bảo quản hàng chưa đầy đủ, thống nhất gây khó khăn trong quá trình tổng hợp xây dựng định mức.

Ba là, công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ được quan tâm, tuy nhiên còn chậm trễ, chưa có kế hoạch cụ thể, dài hơi, lộ trình đào tạo chưa đáp ứng cho công tác đào tạo đội ngũ công chức được quy hoạch nên phần lớn tại các Chi cục DTNN thuộc Cục nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch các chức danh lãnh đạo còn mỏng, một số chức danh lãnh đạo Chi cục chưa có cán bộ quy hoạch hoặc một số trường hợp đã được quy hoạch cán bộ nhưng chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm nên chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu cán bộ.

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 13/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí