Yêu Cầu Khách Quan Và Những Quan Điểm Hoàn Thiện Pháp Luật Về Thừa Kế

hiện, có tổ biên tập, có thành viên là nhà khoa học, nhưng cũng có tổ biên tập không có nhà khoa học nào. Đối với những tổ biên tập có sự tham gia của các nhà khoa học thì trong nhiều trường hợp, họ tham gia không phải với tư cách là nhà khoa học mà là đại diện của cơ quan, tổ chức hữu quan. Khi đó họ đóng vai trò là nhà quản lý, nhà hoạt động thực tiễn chứ không phải với tư cách là nhà phản biện khoa học. Chính vì vậy, hiệu quả sự tham gia của các nhà khoa học trong việc soạn thảo dự án luật, pháp lệnh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.

Hơn nữa, do chưa có quy định cụ thể về cơ chế, chính sách, nguồn kinh phí dành cho sự tham gia của các nhà khoa học, các chuyên gia pháp lý vào hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội, nên chưa khuyến khích được sự tham gia của các nhà khoa học, đồng thời cũng làm cho các chủ thể của quá trình xây dựng pháp luật không được chủ động trong việc mời các nhà khoa học, chuyên gia tham gia hoạt động này.

Bốn là, mặc dù cơ chế làm luật Việt Nam hiện nay có sự chuyển biến mạnh mẽ nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền ban hành luật, nhưng hầu hết các đại biểu còn hoạt động kiêm nhiệm. Hơn nữa, mỗi năm Quốc hội chỉ họp 2 kỳ, mỗi kỳ cũng chỉ khoảng hơn một tháng nên năng lực xây dựng luật của Quốc hội còn chưa đáp ứng được với yêu cầu của cuộc sống. Hơn nữa, các Bộ, Ngành khi ban hành các văn bản pháp luật trong đó có PLVTK nhiều khi còn xuất phát từ lợi ích của Bộ, ngành mình nên không tránh khỏi cách nhìn phiến diện, thiếu tổng thể, thiếu đồng bộ. Trong khi đó việc thẩm định, rà soát các văn bản và xử lý các văn bản trái pháp luật nói chung và PLVTK nói riêng vẫn là một khâu yếu kém. Mặt khác, đội ngũ xây dựng pháp luật thực hiện việc thẩm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật hiện nay còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ, năng lực cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến văn bản PLVTK ban hành thiếu đồng bộ, thiếu cụ thể và chưa cao về kỹ thuật pháp lý.

Năm là, do tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài thiếu lựa chọn và tinh tế.

Trong bối cảnh hội nhập hiện nay của nước ta thì việc học tập kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài là cần thiết. Tuy nhiên, cần bảo đảm tính cẩn trọng trong việc tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài. Kinh nghiệm nước ngoài chỉ có thể gợi ý cho nhà soạn thảo về xu hướng vấn đề nảy sinh trong tương lai của PLVTK, về những giả thiết giải thích cho sự thành công hoặc thất bại khi giải quyết vấn đề này. Thực tiễn cho thấy có những quy phạm PLVTK áp dụng rất hiệu quả ở nước ngoài, nhưng lại không phù hợp ở Việt Nam bởi sự khác nhau về chế độ chính trị,

và cơ sở kinh tế của nước ta so với các nước khác. Vì vậy, khi xây dựng các quy phạm PLVTK, nhất là đối với các quy định thừa kế quyền sử dụng đất, thừa kế có yếu tố nước ngoài mà không nghiên cứu một cách sâu sắc về cơ sở xã hội cụ thể ở Việt Nam thì quy phạm rất khó có tính khả thi.

Sáu là, quy trình xây dựng pháp luật, công tác tổ chức soạn thảo các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu sự đầu tư thích đáng về thời gian công sức, cũng như điều kiện tài chính, chưa thu hút được sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân. Khi xây dựng pháp luật, chưa đầu tư nghiên cứu một cách có bài bản và có hệ thống nên các quy định còn mang tính giải pháp tình thế, thiếu tầm nhìn tổng thể.

Kết luận chương 2

Việc nghiên cứu thực trạng sự hình thành và phát triển pháp luật về thừa kế Việt Nam cho thấy, từ khi hình thành cho đến nay, pháp luật về thừa kế luôn được bổ sung hoàn thiện, tạo được khung pháp lý an toàn điều chỉnh các quan hệ thừa kế,

Tuy nhiên, ra đời trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước luôn diễn ra nhanh chóng và nhiều đạo luật liên quan đến thừa kế, thường xuyên có sự bổ sung sửa đổi, nên pháp luật về thừa kế bộc lộ một số hạn chế như: không ít quy định còn chồng chéo, không thống nhất, thiếu đồng bộ, và chưa rõ ràng. Tình trạng trên cùng với việc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành của các bộ ngành có liên quan đã tạo nên sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật ảnh hưởng đến hiệu quả pháp luật về thừa kế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Tình hình trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân, chúng ta chưa có cơ chế, chiến lược trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thừa kế. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng, luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện một cách đồng bộ, có hệ thống pháp luật về thừa kế là một yêu cầu có tính khách quan trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay.

Chương 3

Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay - 10

Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở việt nam


3.1. Yêu cầu khách quan và những quan điểm hoàn thiện pháp luật về thừa kế

3.1.1. Yêu cầu khách quan hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay

Một là, yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm tới việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới. Đặc biệt, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ 1994, Đảng ta đã khẳng định phương hướng xây dựng nhà nước ta là nhà nước pháp quyền Việt Nam. Phương hướng này đã được chính thức khẳng định trong các văn kiện của Đảng kể từ hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII, đến văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và được thể chế hoá tại Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung một số điều 2001, đó là: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức".

Nhà nước pháp quyền có nhiều nội dung, nhưng một trong những nội dung quan trọng nhất đó là sự ngự trị pháp luật, pháp luật là công cụ chủ yếu và hiệu quả để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Pháp luật đóng vai trò như những quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc, định ra hành lang pháp lý cho các quan hệ của toàn xã hội. Pháp luật về thừa kế trong nhà nước pháp quyền vừa phải đảm bảo với thực tiễn khách quan, đồng bộ, toàn diện, đồng thời vừa phải đảm bảo tính công bằng, nhân đạo, thể hiện ý chí của nhân dân lao động. Trong khi đó, hệ thống pháp luật nước ta nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập. Sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản luật và ngay trong chính bản thân từng văn bản, không phát huy giá trị trong cuộc sống. Đặc biệt hệ thống pháp luật về thừa kế của chúng ta còn có những lỗ hổng nên không theo kịp sự phát triển của các quan hệ xã hội về thừa kế, nhiều quan hệ xã hội về thừa kế mới phát sinh nhưng không có luật điều chỉnh. Điều đó đã gây cản trở cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

Vì vậy, một trong những yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay là phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan của cuộc sống. Để có được một hệ thống pháp luật như thế, đòi hỏi phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện từng ngành luật, từng chế định pháp luật làm cho các ngành luật, các chế định pháp luật phát triển đồng bộ, phù hợp có tính khả thi. Trong đó có một bộ phận quan trọng của ngành luật Dân sự đó là PLVTK. PLVTK cũng phải đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh các quan hệ thừa kế, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người thừa kế, phù hợp với điều kiện cụ thể Việt Nam và xu hướng chung của nhân loại. Có như vậy nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền mới sớm đạt kết quả.

Hai là, yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế:

Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, các quốc gia muốn phát triển không thể độc lập với bên ngoài, mà phải thiết lập các mối quan hệ bang giao rộng rãi. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, chúng ta đã chú ý hội nhập với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ... Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho phép chúng ta tiếp thu học tập những kinh nghiệm của các nước và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể Việt Nam.

Để thực hiện thành công đường lối đối ngoại, yêu cầu đặt ra chúng ta phải xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với pháp luật của cộng đồng quốc tế. Theo tiến sĩ Dương Đăng Huệ:

Pháp luật của Việt Nam không chỉ thể hiện được tính đặc thù của nền kinh tế xã hội Việt Nam mà còn phải thể hiện được những thông lệ những quy định có tính chất chung đã được nhiều nước thừa nhận. Không tuân thủ nguyên tắc này, thì chúng ta về mặt lập pháp đã tự gây trở ngại cho chính mình trong việc hội nhập khu vực và quốc tế [38, tr.21].

Hiện nay nền kinh tế ở nước ta đang trên đà hội nhập với khu vực và quốc tế. Kinh tế thị trường phát triển sẽ ảnh hưởng đến lối sống của nhiều người, quan hệ đối xử của những người thân trong gia đình có thể bị tha hóa, trong xã hội xuất hiện nhưng hành vi vi phạm đạo đức nghiêm trọng. Để cho các quan hệ thừa kế nói chung và thừa kế có yếu tố nước ngoài nói riêng diễn ra một cách thuận lợi, để quyền và lợi ích của người thừa kế được đảm bảo trong cơ chế mới, thì hệ thống pháp luật nói chung, PLVTK nói riêng, phải thường xuyên

được hoàn thiện theo điều kiện thực tế của Việt Nam và phù hợp với những giá trị, chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế.

Như vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, PLVTK nói riêng phải luôn chú ý để đảm bảo xích lại gần nhau giữa PLVTK Việt Nam và PLVTK các nước trên thế giới và thông lệ quốc tế. Qua đó đảm bảo cho việc thực thi một cách nghiêm túc các cam kết quốc tế về hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, bảo đảm lợi ích của các chủ thể đó đồng thời đảm bảo lợi ích kinh tế, chính trị của nhà nước Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc hội nhập phát triển kinh tế nước ta với các nước trên thế giới.

Ba là, yêu cầu bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân.

Đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước ta, là sự thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Chính vì vậy, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định: "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người" [29, tr.77]. Với tư cách là phương tiện để duy trì, củng cố và phát triển sở hữu tài sản. Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống, nó gắn chặt với lợi ích của cá nhân, gia đình, cộng đồng dòng họ. Vì thế, trong bất kỳ chế độ xã hội nào, việc bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã hội ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Vì thế các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cũng đòi hỏi được pháp luật bảo hộ ở mức độ cao hơn. Sự vững mạnh của một quốc gia không chỉ dựa trên sự phát triển của nền kinh tế mà còn được đánh giá trên cơ sở pháp luật bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân như thế nào. Do vậy, Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất cho công dân thực hiện quyền của mình một cách đầy đủ và toàn diện trong đó có quyền thừa kế.

Với bản chất là một quan hệ tài sản, quan hệ thừa kế dưới tác động của nền kinh tế thị trường cũng trở nên phong phú và phổ biến trong các giao lưu dân sự. Các tranh chấp di sản thừa kế diễn ra ngày càng gay gắt và phức tạp. Tình trạng cha kiện con, anh em kiện nhau đòi chia di sản thừa kế cũng xảy ra ở nhiều nơi. Số

lượng các vụ án tồn đọng chưa được giải quyết trên phạm vi toàn quốc hàng năm tăng cao. Trong đó có những tranh chấp kéo dài qua nhiều lần xét xử nhưng vẫn không giải quyết dứt điểm. Vì vậy, nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật về thừa kế để cho bộ phận pháp luật này trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thừa kế, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong quan hệ thừa kế, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội là một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Bốn là, yêu cầu cần khắc phục những hạn chế trong pháp luật Việt Nam về thừa kế.

Trong những năm qua, các quy phạm PLVTK nước ta ngày càng hoàn thiện, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, trong đó phải kể đến BLDS 2005, có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Sự ra đời của BLDS 2005 là một mốc son trong lịch sử lập pháp của nước nhà. Đó là kết quả của các quá trình pháp điển hoá, kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để đảm bảo quyền lợi của người thừa kế một cách có hiệu quả nhất.

Tuy vậy, hệ thống pháp luật nói chung và PLVTK nói riêng vẫn rất cần được hoàn thiện. Điều này cũng là một hiện tượng khách quan, bởi pháp luật bao giờ cũng được xây dựng trên nền tảng kinh tế xã hội. Khi xã hội phát triển thì không thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Những quan hệ xã hội, nhất là những quan hệ trong lĩnh vực tài sản luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, tất yếu dẫn đến sự lỗi thời của pháp luật. Đối với nước ta, đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có rất nhiều sự thay đổi, bổ sung về các quan hệ xã hội. Vì vậy, so với yêu cầu phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước, PLVTK ở nước ta đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.

Như phân tích ở chương II, PLVTK hiện hành ở Việt Nam còn chưa đồng bộ, kỹ thuật lập pháp còn thấp, còn tỏ ra lạc hậu so với yêu cầu đổi mới của đất nước và xu thế hội nhập đời sống kinh tế quốc tế. Nhiều quy định của pháp luật còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất quán trong cách hiểu cũng như giải quyết tranh chấp... điều đó sẽ ảnh hưởng nhất định đến quan hệ thừa kế, đôi khi còn xâm phạm đến quyền thừa kế của công dân. Vì vậy thực tiễn cuộc sống đã thực sự đặt ra những dòi hỏi cấp bách đối với việc hoàn thiện PLVTK ở Việt Nam.

Từ sự phân tích trên cho thấy, đổi mới và hoàn thiện PLVTK ở Việt Nam là vấn đề bức xúc đang được đặt ra. Điều đó không chỉ xuất phát từ yêu cầu trong nước mà còn xuất phát từ những yêu cầu có tính quốc tế cũng như xu hướng vận động và phát triển chung của thế giới. Một khối lượng rất lớn công việc đang được đặt ra đối với công tác xây dựng và hoàn thiện PLVTK, đòi hỏi phải có những quan điểm chỉ đạo đúng đắn và những giải pháp đồng bộ cho vấn đề này.

3.1.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam

Thứ nhất, hoàn thiện PLVTK trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong thời kỳ mới.

Đường lối của Đảng luôn là kim chỉ nam định hướng cho mọi hoạt động của nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội và mọi cá nhân thực hiện. Kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách đổi mới của Đảng là một trong những nhiệm vụ, đồng thời cũng là chìa khoá dẫn đến thành công của công tác xây dựng hoàn thiện pháp luật. Pháp luật về thừa kế ở Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ đó.

Trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó có PLVTK là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCNVN. Ngày 24 tháng 05 năm 2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ/BCT "về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020", đề ra mục tiêu "xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020". Ngày 02/08/2005, Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 49 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã đề ra nhiệm vụ "sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự, bảo đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh". Ngày 22 tháng 02 năm 2006 Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đã đề ra chương trình trọng tâm công tác tư pháp với nội dung "nghiên cứu đề xuất các vấn

đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới theo tinh thần và nội dung chiến lược cải cách tư pháp và BLDS. Đẩy mạnh tiến bộ và khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS".

Vì vậy, thời gian tới, PLVTK cần phải tích cực thể chế quan điểm trên của Đảng. Nó phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện PLVTK ở Việt Nam, tạo nên một sự đột phá mạnh mẽ của của bộ phận pháp luật này, qua đó góp phần bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân. Có như vậy, PLVTK ở Việt Nam mới xứng đáng với vai trò và nhiệm vụ của nó.

Thứ hai, hoàn thiện PLVTK phải được đặt trong tổng thể hoàn thiện cả hệ thống pháp luật của nhà nước ta.

Để có được một hệ thống pháp luật hoàn thiện đòi hỏi từng bộ phận trong hệ thống đó cũng phải hoàn thiện và do đó việc hoàn thiện PLVTK có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam. Mặt khác, từng bộ phận trong hệ thống pháp luật lại có mối quan hệ tương hỗ, gắn bó hữu cơ với nhau bởi tuy chúng sinh ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội khác nhau nhưng các quan hệ xã hội này lại phát sinh trên cùng một nền tảng kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, việc hoàn thiện một bộ phận trong hệ thống đó phải được đặt trong mối liên hệ với việc hoàn thiện các bộ phận khác.

PLVTK là một bộ phận của pháp luật dân sự, có mối quan hệ chặt chẽ và có sự tác động qua lại với các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên việc hoàn thiện PLVTK phải đặt trong tổng thể việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng. Quan điểm này đòi hỏi không được để các "lỗ hỗng" trong PLVTK và yêu cầu đồng bộ trong các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan đến thừa kế như Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Hiến pháp... Điều đó có nghĩa là: bất cứ sự thay đổi trong các quy phạm PLVTK phải đi liền với việc rà soát các đạo luật có liên quan. Ngược lại, khi sửa đổi các đạo luật khác cũng cần phải lưu ý đến các quan hệ thừa kế, để việc hoàn thiện đạo luật đó có tính bao trùm mọi đối tượng liên quan và để bảo đảm những điểm sửa đổi, bổ sung trong PLVTK ở Việt Nam và các đạo luật liên quan có tính khả thi và đi vào cuộc sống. Nói cách khác, bộ phận PLVTK phải được hoàn thiện một cách đồng bộ thống nhất để đáp ứng các yêu cầu mà thực tiễn đặt ra.

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 29/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí