hiện nghiêm chỉnh. Các bản Hiến pháp đều ghi nhận và khẳng định quyền con người đồng thời cũng khẳng định: “Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”[1, tr.3]. Nhận thức về quyền của nhóm xã hội yếu thế của các cơ quan nhà nước, người dân và toàn xã hội về vấn đề này ngày càng cao. Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người và quyền của nhóm xã hội yếu thế để ngày càng phù hợp với các tiêu chuẩn của quốc tế và ngày càng đảm bảo tôn trọng, thực hiện tốt hơn các quyền này ở Việt Nam.
Tuy vậy, trong thực tế việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho các nhóm xã hội yếu thế vẫn còn một số tồn tại. Đó là:
Thứ nhất: Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật chưa cao, chưa phản ánh được nhu cầu và đòi hỏi của cuộc sống. Việc xây dựng một dự án luật về bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế đôi khi chỉ là những ý tưởng mơ hồ, chung chung, không phải là những luận cứ khoa học được nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng[2, tr.28- 46].
Thứ hai: Trong hoạt động soạn thảo, thẩm định, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh mặc dù đã có quy trình tương đối đồng bộ về thủ tục, trình tự soạn thảo, ban hành văn bản nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Mặc dù pháp luật quy định khi soạn thảo phải có sự tham gia của nhiều thành phần thuộc nhiều ban ngành khác nhau, mang tính chất liên ngành nhưng trên thực tế các thành phần này chưa phát huy được hiệu quả. Văn bản được giao cho ngành nào soạn thảo thì ngành đó thường có xu hướng soạn thảo theo hướng có lợi cho ngành mình. Việc lấy ý kiến của nhân dân vào dự thảo luật và pháp lệnh còn chưa được thực hiện nghiêm chỉnh. Đặc biệt là việc xây dựng pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế chưa có sự tham gia tích cực từ phía các đối tượng thuộc nhóm xã hội yếu thế. Theo số liệu khảo sát thì từ năm 1987 đến năm 2000, hình thức lấy ý kiến nhân dân vào dự thảo luật, pháp lệnh chỉ được tiến hành đối với khoảng 4% trong tổng số các luật và pháp lệnh đã ban hành. Và từ đó đến nay cũng không có cải thiện hơn là bao. Trừ các lần sửa đổi Hiến pháp thì tỷ lệ lấy ý kiến của nhân dân là 100%[6, tr.25-26]. Sự tham gia của các nhà khoa học, chuyên gia vào soạn thảo dự án luật còn hạn chế. Mặc dù Luật ban hành văn bản quy định đây là thành phần cứng trong Ban soạn thảo nhưng trên thực tế
không có nhiều sự tham gia trực tiếp của giới khoa học mà chủ yếu thông qua các hội thảo, tọa đàm. Tỷ lệ các dự án luật, pháp lệnh có mời chuyên gia, nhà khoa học vào thành phần ban soạn thảo rất ít, đa số không có sự tham gia của nhà khoa học và chuyên gia. Trong một số ít tổ biên tập có mời thì tỷ lệ nhà khoa học, chuyên gia cũng thấp, chỉ khoảng 10% trong tổng số các thành viên[2, tr.62]. Khâu hoạch định chính sách chưa được quan tâm đúng mức nên văn bản phải soạn thảo đi soạn thảo lại nhiều lần vẫn diễn ra, việc triển khai vào cuộc sống không đạt được hiệu quả như mong muốn. Các cơ quan thi hành gặp nhiều khó khăn trong triển khai và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Từ đó mới dẫn đến việc các văn bản luật thay đổi quá nhiều, tạo nên sự không ổn định trong lập pháp. Vì vậy, việc ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế cũng ở trong tình trạng tương tự.
Thứ ba: Việc bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế nhiều khi vẫn dừng lại ở những quy định chung chung mà thiếu các biện pháp bảo đảm thi hành, thiếu các chế tài xử lý khi bị vi phạm. Ví dụ như quyền bình đẳng của phụ nữ trong gia đình, quyền được chăm sóc, giáo dục, được học tiểu học miễn phí của trẻ em nhất là các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; các quyền được chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ; quyền được hỗ trợ về việc đi lại, quyền việc làm của người khuyết tật….tuy đã có quy định nhưng trên thực tế gần như không thể đảm bảo thực hiện được bởi vì thiếu các biện pháp đảm bảo thi hành.
Thứ tư: pháp luật Việt Nam, do nhiều bất cập trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật nên rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành từ cấp trung ương cho đến cấp địa phương. Mỗi một văn bản luật lại cần có rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Do có quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp ban hành, nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc toàn diện các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên mâu thuẫn và chồng chéo là khó tránh khỏi. Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng và, vì thế, kém hiệu lực và hiệu quả. Trong khi một số nhóm xã hội yếu thế, do đặc thù bản thân họ đã rất khó khăn khi tiếp cận và tìm hiểu và vận dụng những quy định của pháp luật.
Thứ năm: tính ổn định của pháp luật Việt Nam không cao, các văn bản pháp luật thường xuyên thay đổi. Nguyên nhân là do tầm nhìn và quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể chưa hiệu quả. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật tuổi thọ rất ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thường xuyên bị thay đổi, dẫn những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội.
Thứ sáu: rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp, tức là thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Thực tế này không những tồn tại trong toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mà còn tồn tại một cách phổ biến trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế. Những quy định về bảo vệ quyền lợi nhóm xã hội yếu thế trong nhiều văn bản đôi khi chỉ mang tính tuyên ngôn, hình thức hơn là quy phạm pháp luật. Ví dụ như những vấn đề về bình đẳng giới hay hôn nhân gia đình. Nhiều quy định đó chỉ thuần túy mang tính hình thức, không hề đưa ra quy tắc xử sự mà mọi người đều phải tuân theo, cũng không hề đưa ra biện pháp xử lý nếu có người vi phạm. Việc thực hiện hay không thực hiện chủ yếu phụ thuộc vào ý thức của người dân. Nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi phải được điều chỉnh cụ thể, chi tiết thì lại thiếu hướng dẫn thi hành nên đôi khi tình trạng Luật phải chờ hướng dẫn của các cấp khác nhau nên để đi vào thực tiễn cuộc sống được, đảm bảo được quyền lợi cho nhóm xã hội yếu thế rất mất thời gian. Còn rất nhiều vấn đề trong thực tế đã nảy sinh từ rất lâu nhưng pháp luật lại không có quy định để giải quyết triệt để hoặc đã có quy định nhưng còn quá nhiều vấn đề gây tranh cãi và thiếu hướng dẫn cụ thể như vấn đề giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn; việc kết hôn giữa những người đồng tính; chế độ tài sản theo thỏa thuận hay như vấn đề mang thai hộ, ly thân tuy đã được pháp luật cho phép nhưng còn có quá nhiều vấn đề gây tranh cãi, chưa thống nhất được hay còn bất cập. Tuy luật một số vấn đề đã được pháp luật cho phép nhưng để thực thi được, để những quy định của pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống còn phải cần rất nhiều thời gian và cần chờ hướng dẫn của nhiều ngành, nhiều cấp...
Thứ bảy: tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế mặc dù Công báo của Trung ương và các tỉnh đã đăng tải khá đầy đủ, kịp thời các văn bản quy
Có thể bạn quan tâm!
- Trách Nhiệm Quan Lại Trong Việc Bảo Vệ Quyền Lợi Của Nhóm Xã Hội Yếu Thế
- Bộ Luật Hồng Đức Đã Bảo Đảm Trên Thực Tế Quyền Lợi Cho Nhóm Xã Hội Yếu Thế Bằng Cách Quy Định Trách Nhiệm Của Cơ Quan Nhà Nước Có Thẩm
- Giá Trị Kế Thừa Từ Những Quy Định Về Bảo Vệ Quyền Lợi Nhóm Xã Hội Yếu Thế Trong Bộ Luật Hồng Đức
- Kế Thừa Những Giá Trị Của Bộ Luật Hồng Đức Trong Quá Trình Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Lợi Của Trẻ Em Trong Giai Đoạn Hiện Nay.
- Kế Thừa Những Giá Trị Của Bộ Luật Hồng Đức Trong Quá Trình Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Lợi Của Người Bị Buộc Tội, Người Phạm
- Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và giá trị kế thừa - 15
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
phạm pháp luật. Các phương tiện thông tin đại chúng, cả hệ thống chính trị và xã hội đã có nhiều cố gắng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật…nhưng trong quy trình xây dựng pháp luật vẫn chưa tạo được cho người dân và nhóm xã hội yếu thế nói riêng được tham gia một cách đông đảo và hiệu quả. Các ý kiến của chuyên gia, của các nhà khoa học và của công chúng, nhất là nhóm xã hội yếu thế chưa thực sự được cân nhắc và tiếp thu nên nhiều khi có hiện tượng ban hành văn bản pháp luật “trên trời” hoặc gây tranh cãi gay gắt. Mặt khác, tính tích cực công dân tham gia xây dựng pháp luật nhìn chung chưa cao.
Thứ tám: tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế. Về nguyên tắc, các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực hay trong nhiều lĩnh vực khác nhau đều phải thống nhất với nhau. Những quy định của Hiến pháp phải được bảo đảm bởi các luật, văn bản dưới luật và các văn bản ấy phải tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt. Thế nhưng trong pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế nói riêng tính hệ thống này còn yếu. Sự mâu thuẫn đó làm cho việc áp dụng pháp luật trở nên phức tạp và khó khăn hơn.
Tất cả những thực tế đó làm cho các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế vừa thiếu, vừa yếu và chưa đáp ứng được yêu cầu của việc xây dựng hệ thống pháp luật mạnh góp phần vào xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy nên việc tìm ra biện pháp để giải quyết triệt để những vấn đề nổi cộm này là một nhiệm vụ khá nan giải đối với nhà nước Việt Nam trong thời điểm hiện nay.
3.3.2. Thực tiễn thực hiện và áp dụng các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế
Trong thời gian qua, với sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của nhà nước Việt Nam, quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế đã được quan tâm và bảo vệ. Nhiều văn bản pháp luật về lĩnh vực này đã được ban hành và đi vào thực tiễn cuộc sống trở thành những hành vi cụ thể của các chủ thể pháp luật. Sự đánh giá của thế giới đối với những nỗ lực không ngừng đó cũng ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề tác động đến quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế. Điều đó thể hiện ở những điểm sau:
Một là: nhận thức của cán bộ và người dân về quyền con người, quyền của nhóm xã hội yếu thế còn chưa đầy đủ, nhiều khi vẫn mang tính phiến diện. Bản thân những người thuộc nhóm xã hội yếu thế, do có nhiều khó khăn nên trình độ hiểu biết về pháp luật và nhận thức về quyền lợi của chính mình cũng không được đầy đủ. Họ rất khó có thể tự bảo vệ chính mình. Vì vậy, trong thực tế, quyền lợi của những đối tượng thuộc nhóm xã hội yếu thế vẫn còn bị xâm hại. Họ vẫn là đối tượng rất dễ bị tổn thương, dễ bị xâm hại nhất là đối tượng phụ nữ ở tầng lớp lao động chân tay, phụ nữ nông thôn hoặc ở các vùng sâu vùng xa, kinh tế kém phát triển; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hay người già cô đơn, không có thu nhập thường xuyên, không có nơi nương tựa.
Hai là: ý thức tôn trọng, bảo vệ các quyền con người, quyền của nhóm xã hội yếu thế trong mọi tầng lớp xã hội và người dân còn chưa cao. Việc củng cố nâng cao ý thức pháp luật thời gian qua mới chỉ chủ yếu tập trung vào xây dựng hệ tư tưởng pháp luật nhiều hơn mà ít chú ý tới việc củng cố, định hướng để hình thành những thái độ, tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp trong người dân. Do vậy, ý thức pháp luật về vai trò và quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế ở nước ta tuy đã được nâng cao một chút, nhưng tâm lý pháp luật trong mỗi cá nhân diễn biến còn khá phức tạp. Nhiều vấn đề như bất bình đẳng giới, bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em, vai trò của người khuyết tật, ác cảm với người đồng tính, người phạm tội…không được tôn trọng, quan tâm giải quyết đúng mức. Đôi khi cũng có những quan niệm lệch lạc về nhóm xã hội yếu thế đã trở thành định kiến, thói quen ăn sâu, bám rễ trong ý thức của nhiều người. Bản thân những người thuộc nhóm xã hội yếu thế nhiều khi do không hiểu biết đầy đủ pháp luật nên thường có đến tâm lý thiếu tự tin, không chủ động bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm hại. Tình trạng thiếu hiểu biết về pháp luật tồn tại phổ biến trong nhân dân cũng dễ tạo nên tâm lý thờ ơ, lãnh đạm, thậm chí coi thường pháp luật ở những người khác dẫn đến việc nhiều người dân khi chứng kiến những hành vi vi phạm quyền lợi những đối tượng thuộc nhóm xã hội yếu thế có những hành vi xử sự không đúng với quy định của pháp luật. Tất cả mọi người dân đều có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhưng đối với những người thuộc nhóm xã hội yếu thế, việc tiếp cận cơ hội để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình bị hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, để thay đổi ý thức của
người dân nói chung và nhóm xã hội yếu thế nói riêng về vai trò cũng như quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế và tạo điều kiện cho những người thuộc nhóm xã hội này có thể tự bảo vệ quyền lợi của chính mình đồng thời được bảo vệ bởi cộng đồng rất cần có cơ chế riêng phù hợp.
Ba là: thiếu các biện pháp bảo đảm thi hành, thiếu các chế tài xử lý khi quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế bị vi phạm. Đặc biệt trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế vẫn chưa được quy định rõ ràng. Đôi khi xảy ra tình trạng chồng chéo hay đùn đẩy nhau trong việc thực thi pháp luật. Do đó quyền lợi của những đối tượng này nhiều khi vẫn bị xâm hại hay chưa được bảo đảm đúng mức cần thiết.
Bốn là: Sự đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành từ cấp trung ương cho đến cấp địa phương và hiện trạng một văn bản luật lại có nhiều văn bản hướng dẫn đi kèm nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc toàn diện các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên mâu thuẫn và chồng chéo là khó tránh khỏi khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó thực hiện và áp dụng. Sự khó khăn ấy trước hết là đối với những người làm công tác bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế. Đối với chính bản thân những người thuộc nhóm xã hội yếu thế cũng rất khó để hiểu và bảo vệ tốt quyền lợi của chính mình. Về nguyên tắc, các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực hay trong nhiều lĩnh vực khác nhau đều phải thống nhất với nhau. Những quy định của Hiến pháp phải được bảo đảm bởi các luật và văn bản dưới luật và các văn bản luật, các văn bản dưới luật khác nhau phải tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt. Thế nhưng trong pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế nói riêng tính hệ thống này còn yếu. Sự mâu thuẫn đó làm cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Người dân thì không nắm được mà cơ quan làm công tác bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế nhiều khi lúng túng trong việc áp dụng.
Năm là: pháp luật Việt Nam có tính ổn định không cao, thường xuyên thay đổi, nhiều văn bản pháp luật có tuổi thọ rất ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Việc thiếu tính ổn định dẫn những khó
khăn đáng kể trong việc thực hiện, áp dụng pháp luật và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội.
Sáu là: thiếu hướng dẫn thi hành nên đôi khi tình trạng Luật phải chờ hướng dẫn của các cấp khác nhau nên để đi vào thực tiễn cuộc sống được, đảm bảo được quyền lợi cho nhóm xã hội yếu thế rất mất thời gian. Còn rất nhiều vấn đề trong thực tế đã nảy sinh từ rất lâu nhưng pháp luật lại không có quy định để giải quyết triệt để hoặc đã có quy định nhưng còn quá nhiều vấn đề gây tranh cãi và thiếu hướng dẫn cụ thể nên về thực chất không thể thực hiện hay áp dụng được. Vì vậy đôi khi việc bảo vệ quyền lợi của một số đối tượng thuộc nhóm xã hội yếu thế chỉ dừng lại ở những tuyên ngôn mà thôi chứ chưa đi vào thực tiễn cuộc sống.
Bảy là: Pháp luật có quá ít những quy định mang tính ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như những người có trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế. Đồng thời những quy định nhằm mục đích hạn chế sự thờ ơ vô trách nhiệm cũng như sự lạm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước và những người có trách nhiệm cũng chưa đầy đủ. Chế tài hiện nay cho các hành vi vi phạm, xâm hại đến quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế vẫn thiếu. Hoặc nếu có thì được xây dựng theo kiểu chế tài không cố định, tức là chỉ xác định mức cao nhất và thấp nhất của hình thức xử lý. Việc quy định như vậy sẽ dễ dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng pháp luật. Do đó chưa bảo đảm được quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế.
Như vậy, thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế đã đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải được khắc phục nhanh chóng để hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong thực tiễn. Tìm ra những giải pháp hiệu quả để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này là việc làm cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi Việt Nam đang tập trung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tất cả vì con người.
3.4. Kế thừa những giá trị của Bộ luật Hồng Đức trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế ở Việt Nam hiện nay
Qua quá trình nghiên cứu Bộ luật Hồng Đức với việc bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế, bản thân người viết luận văn nhận thấy Bộ luật Hồng Đức mặc
dù chứa đựng rất nhiều giá trị có thể góp phần có ích trong quá trình hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi nhóm xã hội yếu thế hiện nay. Song hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay đã không còn như 500 năm trước. Những giá trị tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức chỉ được coi là tiến bộ khi nó được đặt trong bối cảnh xã hội thời bấy giờ và khi so sánh với pháp luật Trung Hoa và Tây Âu cũng như nhiều quốc gia khác cùng thời điểm. Nếu so với xã hội hiện đại thì đó chưa thể coi là “tiến bộ” được và sự so sánh đó sẽ là rất khập khiễng. Mặt khác, bản chất xã hội ta đã thay đổi so với chế độ xã hội dưới thời Lê sơ. Đất nước đã hoàn toàn độc lập, tự do, nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã được thành lập, tất cả các tư liệu sản xuất cơ bản đều thuộc về nhân dân, pháp luật là ý chí của đại đa số nhân dân lao động…Do đó việc kế thừa những giá trị tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức đối với pháp luật hiện nay vừa phải tuân theo những nguyên tắc đã xác định vừa phải trên tinh thần “gạn đục khơi trong”, kế thừa những cái vẫn còn phù hợp trên cơ sở có bổ khuyết thêm những nội dung, giá trị mới.
Thời Lê sơ, hoàn toàn chưa có quan niệm về nhóm xã hội yếu thế, chưa có quan niệm về nhân quyền hay các phong trào đấu tranh đòi nhân quyền. Việc quyền con người có được tôn trọng hay không cũng không phải là tiêu chí để đánh giá một quốc gia là hùng mạnh hay tiến bộ. Mặt khác, đất nước ta thời kỳ đó chỉ là một nước nông nghiệp lạc hậu, khép kín, các quan hệ xã hội cũng không thể phong phú như hiện nay. Nhóm xã hội yếu thế cũng vì thế chỉ có một số đối tượng như phụ nữ, người già, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người phạm tội…chứ không nhiều như quan niệm của pháp luật hiện đại. Chính vì vậy, đối với việc kế thừa các giá trị tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức nhằm mục đích hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay, bản thân người viết luận văn nhân thấy cần tập trung vào một số nhóm đối tượng nhất định như phụ nữ, người già, trẻ em, người phạm tội, người dân tộc thiểu số. Đó là những đối tượng thuộc nhóm xã hội yếu thế mà Bộ luật Hồng Đức đã đề cập đến. Có như vậy mới thấy được giá trị của Bộ luật Hồng Đức so với pháp luật hiện đại.
3.4.1. Kế thừa những giá trị của Bộ luật Hồng Đức trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
Mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng Bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều giá trị tiến bộ nhất là trong những nội dung bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội