Những Hạn Chế Về Pháp Luật Về Thừa Kế Và Nguyên Nhân Của Nó

E và có thể nói rằng cuối cùng tài sản của ông A không được để lại thừa kế theo đường huyết thống cho cháu nội đích tôn của mình.

Đây là một hạn chế của BLDS năm 1995, bởi vì cha mẹ của cháu chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì phần đáng lẽ ra, cha mẹ cháu được hưởng phải thế vị cho các cháu và xem đó như là quyền lợi, trách nhiệm bổn phận mà đáng lẽ ra cha mẹ cháu không chết sẽ nuôi dưỡng và chăm sóc cháu. Vì vậy, BLDS năm 2005 đã bổ sung thêm thừa kế thế vị đặt ra trong trường hợp “chết cùng thời điểm” tại Điều 677. Việc sửa đổi mới này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho người thừa kế thuộc đối tượng “thế vị” này được công bằng với những đồng thừa kế khác; đồng thời, đảm bảo được nguyên tắc thừa kế theo huyết thống, phù hợp với phong tục Việt Nam.

Về thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp, trước đây theo Điều 740 BLDS năm 1995 quy định đối với đất nông nghiệp người được thừa kế phải có đủ điều kiện: "có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện tiếp tục sản xuất nông nghiệp chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định của pháp luật về đất đai". Vì vậy, người để lại thừa kế có di chúc để lại di sản đất nông nghiệp thì phải di chúc đúng đối tượng quy định tại Điều 740. Hơn nữa, "điều kiện có nhu cầu sử dụng đất, điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích" còn có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Vì vây, PLVTK hiện hành đã bỏ đi quy định điều kiện thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp, nhằm khắc phục mâu thuẫn không thống nhất giữa các quy định, đảm bảo sự bình đẳng giữa những người thừa kế quyền sử dụng đất.

Ngoài ra BLDS 2005 còn sửa đổi những bất cập, hạn chế của quy định BLDS 1995 như thời hiệu khởi kiện, những người thừa kế di sản của nhau chết cùng một thời điểm, hiệu lực pháp luật di chúc chung vợ chồng, hình thức di chúc, di chúc hợp pháp, phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế, pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền thừa kế... Quy định bổ sung này đã tạo ra khả năng áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp thừa kế cụ thể, rõ ràng, tránh sự áp dụng pháp luật không thống nhất.

Thứ tư nội dung của PLVTK hiện hành đã kế thừa và tiếp tục phát huy những quy định có nội dung tiến bộ, thể hiện bản chất và ý nghĩa của PLVTK của nhà nước XHCN, xoá bỏ tàn tích của chế độ thừa kế xã hội phong kiến Việt Nam, những biểu hiện tư tưởng gia trưởng, trọng nam, khinh nữ, bảo vệ quan hệ hôn nhân tiến bộ, vợ chồng bình đẳng, bảo vệ quyền thừa kế giữa các con, không phân

biệt con trai, con gái, con đẻ, con nuôi. Những quy định PLVTK đã góp phần giáo dục ý thức tuân theo pháp luật của công dân trong cuộc sống, đồng thời có trách nhiệm với những người thân thuộc và tôn trọng pháp luật, tôn trọng đạo đức xã hội.

Thứ năm, về trình độ kỹ thuật pháp lý của PLVTK hiện hành thể hiện ở mức độ tương đối cao, tiếp thu những kinh nghiệm của PLVTK một số nước trên thế giới, PLVTK hiện hành được xây dựng một cách khá khoa học, đúng về thẩm quyền nội dung, có kết cấu văn bản hợp lý, phương pháp trình bày rõ ràng, khoa học, dễ áp dụng, ngôn ngữ tương đối chính xác. Có thể nói BLDS 2005 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá những quy định của PLVTK. Nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để đảm bảo quyền lợi của người thừa kế một cách có hiệu quả nhất.

2.2.3. Những hạn chế về pháp luật về thừa kế và nguyên nhân của nó

* Những hạn chế trong PLVTK:

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, PLVTK hiện hành vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Một là, PLVTK còn thiếu tính cụ thể:

Mặc dù BLDS 2005, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 ra đời trong bối cảnh có Nghị quyết 48/NQ-TW và Nghị quyết 80/NQ-TW của Bộ chính trị, nên đã có những quy định mới so với các văn bản PLVTK trước đây, tạo điều kiện việc giải quyết tranh chấp thừa kế đạt hiệu quả cao. BLDS 2005 đã mở rộng phạm vi diện thừa kế theo đó số người trong hàng thừa kế cũng tăng lên nhằm cũng cố mối đoàn kết giữa các thành viên trong gia đình và di sản thừa kế được truyền lại cho những người thừa kế một cách đúng nghĩa nhất. Bộ luật cũng đã khắc phục được những hạn chế và bất cập, những quy định của PLVTK trước đây, đồng thời bỏ đi những quy định không phù hợp trong thực tế như quy định điều kiện thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp... Song những quy định này chỉ là những bước đột phá trong PLVTK ở Việt Nam, vẫn còn có những quy định chưa chi tiết, chưa cụ thể, còn chung chung nên trong thực tiễn áp dụng, sẽ có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định quy phạm để giải quyết tranh chấp.

Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay - 9

Ví dụ như về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế. Theo quy định tại Điều 679 BLDS 2005 quy định: "con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa hưởng di sản của nhau và được thừa kế di sản theo quy định tai Điều 676 và Điều 677 Bộ

luật này". Như vậy, để được quyền thừa kế di sản giữa con riêng, bố dượng, mẹ kế thì pháp luật quy định họ phải có quan hệ chăm sóc nhau như cha con, mẹ con? Quy định này rất chung chung trừu tượng, nên trong thực tiễn áp dụng nhiều khi không thống nhất. Có ý kiến cho rằng, con riêng và bố dượng, mẹ kế phải sống chung nhà, nếu không sống chung nhà thì phải sống gần nhà nhau, như vậy, mới có điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc bố dượng, mẹ kế như đối với cha mẹ đẻ thì mới được hưởng thừa kế. Có ý kiến lại cho rằng, không đòi hỏi con riêng phải sống chung nhà với bố dượng, mẹ kế, việc sống gần nhà với bố dượng, mẹ kế không đòi hỏi con riêng phải đích thân trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế mà có thể thuê người giúp việc để chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế. Có quan điểm lại cho rằng: pháp luật không quy định thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế dài hay ngắn nhưng phải chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến ngày bố dượng mẹ kế chết, mới được thừa kế di sản của bố dượng, mẹ kế... Điều đó là do không có tiêu chí đánh giá cụ thể về thời gian nuôi dưỡng, mức độ nuôi dưỡng, hành vi chăm sóc được thể hiện từ hai phía hay chỉ từ một phía đã không có một điều luật nào quy định. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp di sản trong trường hợp này, mỗi thẩm phán sẽ nhận thức khác nhau và đưa ra hướng giải quyết khác nhau.

Hoặc về sự đồng ý của cha mẹ đối với con từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi lập di chúc. Do điều luật chưa xác định rõ sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ là đồng ý về cái gì? Về sự định đoạt trong di chúc hay về việc lập di chúc. Sự đồng ý này phải thể hiện dưới hình thức như thế nào? Có bắt buộc việc đồng ý phải được thể hiện bằng văn bản riêng hay chỉ cần xác nhận vào di chúc hay chỉ cần bằng miệng? Có cần cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hay không? Sự đồng ý thể hiện trước, trong hay sau khi người chưa thành niên lập di chúc? Vấn đề này chưa được một văn bản pháp luật nào quy định hay giải thích cụ thể nên hiện đang còn nhiều cách hiểu khác nhau. Nếu hiểu sự đồng ý đó là đồng ý với việc định đoạt trong nội dung di chúc thì vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong khi lập di chúc, di chúc sẽ không hợp pháp. Nếu không có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ thì sự định đoạt đó coi như không có giá trị pháp lý.

Ngoài ra, PLVTK hiện hành còn rất nhiều vấn đề cần được pháp luật cụ thể hoá để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện và bảo vệ quyền thừa kế của công dân như thời hiệu khởi kiện thừa kế, thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi, thừa kế quyền sử dụng đất, di chúc miệng... Bức xúc nhất là những vấn đề về thủ tục để thừa kế nhà ở và thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất và gắn liền di sản trên đất đó.

Ví dụ về thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thừa kế, mặc dù Luật Đất đai và luật dân sự đã quy định về trình tự thủ tục đăng ký và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng do chưa quy định cụ thể trách nhiệm của cán bộ công chức làm nhiệm vụ này. Do đó trên thực tế dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian xem xét để cấp giấy chứng nhận, dể gây ra tiêu cực trong quá trình thực hiện. Pháp luật đã trao cho người thừa kế các quyền nhưng nếu chỉ dừng ở những quy định chung chung thì các quyền đó thật khó có tính khả thi trong cuộc sống.

Hai là, PLVTK hiện hành chưa đảm bảo tính toàn diện.

Mặc dù việc xây dựng PLVTK trong những năm qua đã đánh dấu bước phát triển mới của quan điểm và trình độ lập pháp của nước ta. Nhưng ở mức độ nhất định, vẫn chưa bắt kịp với yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội. Một số quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài phát sinh trong thực tế nhưng pháp luật vẫn chưa điều chỉnh kịp thời. Điển hình là vấn đề thừa kế tài sản của người nước ngoài. Trước kia, Quyết định số 122 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ và pháp lệnh thừa kế 1991 đều ghi nhận quyền thừa kế của người nước ngoài tại Việt Nam, nhưng đều chỉ dừng lại ở những quy định mang tính chất khung. BLDS 2005 cũng chỉ có Điều 767 và Điều 768 quy định về phương pháp giải quyết xung đột PLVTK mà chưa có điều khoản cụ thể nào về quyền thừa kế, hơn nữa hai quy phạm xung đột còn thể hiện không chuẩn xác về nội dung và cấu trúc. Do đó, các hiệp định tương trợ tư pháp, hiệp định lãnh sự... gần như đã trở thành căn cứ pháp lý duy nhất để điều chỉnh quan hệ thừa kế của công dân các nước mà Việt Nam đã tham gia ký kết.

Ngoài ra, trong lĩnh vực diện và hàng thừa kế, pháp luật hiện hành cũng còn thiếu nhiều quy phạm điều chỉnh như quan hệ thừa kế của con sinh ra theo phương pháp khoa học hiện đại, thừa kế thế vị của cháu khi bố mẹ họ bị kết án một trong những hành vi bị tước quyền thừa kế. Thời gian gần đây, trên thế giới và ở Việt Nam đã xuất hiện tương đối phổ biến những đứa trẻ sinh ra do thụ tinh trong ống nghiệm, hay hiện tượng mang thai hộ. Đây là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cải trong việc xác định mối quan hệ thực sự giữa cha, mẹ, con và vấn đề này còn liên quan đến một loạt các quan hệ pháp lý khác về thừa kế cấp dưỡng... Để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh này, Khoản 2 Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã bổ sung quy định mới "việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định". Quy định bổ sung thêm này là phù hợp với sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại ngày nay. Tuy

nhiên, một vấn đề đặt ra là quan hệ thừa kế của những đứa trẻ đó được giải quyết như thế nào? Nó có được quyền thừa kế di sản của người cha mẹ sinh học không? PLVTK hiện hành ở nước ta chưa quy định vấn đề này, trên thực tế nếu có tranh chấp xảy ra, các cơ quan bảo vệ pháp luật rất lúng túng trong quá trình vận dụng pháp luật để giải quyết.

Hoặc quy phạm quy định thừa kế thế vị trong trường hợp có vi phạm Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005. Hiến pháp 1992 và Điều 631 BLDS 2005 đều ghi nhận quyền hưởng thừa kế của cá nhân. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội có một số trường hợp cá biệt người thừa kế vi phạm nghiêm trọng hoặc có hành vi trái đạo đức xã hội bị pháp luật tước quyền hưởng di sản, luật dân sự nước ta cũng như luật dân sự các nước khác trên thế giới đều có quy định về những người không được hưởng thừa kế. Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm là trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản nhưng người con đó khi còn sống đã bị kết án về một trong các hành vi theo quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS 2005, thì cháu có được thừa kế thế vị không? PLVTK ở nước ta từ khi hình thành cho đến nay chưa có điều luật nào quy định vấn đề này. Vì vậy, trong thực tiễn áp dụng có nhiều quan điểm mâu thuẫn nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng: "trường hợp này cháu không được hưởng thừa kế thế vị bởi vì thừa kế thế vị chỉ phát sinh trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống. Nếu cháu cũng đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Cơ sở thừa kế thế vị của cháu, chắt là dựa vào quyền thừa kế theo pháp luật của bố hoặc mẹ của họ nếu còn sống. Vì vậy, cháu không thể hưởng thừa kế thế vị của ông bà nếu cha hoặc mẹ của cháu khi còn sống không có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật". Quan điểm thứ hai trái ngược hẳn với quan điểm thứ nhất. Quan điểm này cho rằng: "để bảo vệ quyền hưởng di sản của cháu, chắt khi bản thân của họ không bị toà án tước quyền, không bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản, họ có năng lực thừa hưởng thì pháp luật nên cho họ hưởng thay cho cha mẹ họ bị tước. Hơn nữa, trong thực tế người con đó không hề có lỗi trong hành vi xử sự của cha mẹ. Vì thế, khi giải quyết tranh chấp liên quan đến vấn đề này, tuỳ theo cách vận dụng của thẩm phán mà đưa ra phương án giải quyết khác nhau dẫn đến sự tuỳ tiện trong việc áp dụng pháp luật, không đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.

Ngoài ra, trong thực tế đời sống xã hội hiện nay đã phát sinh nhiều quan hệ thừa kế mà pháp luật chưa đề cập đến hoặc có đề cập đến nhưng chưa rõ, chưa cụ thể như vấn đề nhường quyền hưởng di sản, người viết di chúc hộ, các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài... điều đó đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất giữa các cấp toà án trong việc giải quyết những tranh chấp cụ thể, mặc dù các vụ tranh chấp đó có nội dung tương tự nhau.

Ba là, pháp luật về thừa kế còn có một số quy định bất cập so với yêu cầu cuộc sống

PLVTK ở Việt Nam được cấu thành bởi nhiều quy phạm, trong nhiều văn bản thuộc các ngành luật khác nhau như ngành luật dân sự, ngành Luật Đất đai, ngành Luật Hôn nhân và gia đình, ngành luật tố tụng dân sự... Nội dung của các quy định về thừa kế hiện hành đã đánh dấu trình độ trưởng thành về lập pháp ở nước ta, điều chỉnh tương đối toàn diện quan hệ thừa kế. Tuy nhiên, qua nghiên cứu quá trình thi hành và áp dụng, chúng tôi thấy còn nhiều quy định về thừa kế hiện hành chưa thật phù hợp với đời sống xã hội. Cụ thể:

- Về vấn đề người thừa kế từ chối nhận di sản: Điều 642 BLDS 2005 quy định: "người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ thời điểm mở thừa kế" hình thức của việc từ chối phải làm thành văn bản, phải báo cho những người thừa kế khác, cơ quan công chứng, UBND xã, phường nơi có địa điểm mở thừa kế "... Quy định trên không những không phù hợp với thực tế mà còn có tính chất áp đặt, vi phạm nguyên tắc tự nguyện của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Vì nguyên tắc tự định đoạt của người thừa kế được thể hiện ở quyền nhận hay không nhận di sản. Một người từ chối một quyền dân sự nào đó, không gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác và cũng không vi phạm đạo đức xã hội thì không thể bị hạn chế trong một thời hạn như luật định. Thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng, kể từ ngày mở thừa kế là một khoảng thời gian ngắn ngủi hơn nhiều so với khoảng thời gian bảo hộ quyền thừa kế hợp pháp của chủ thể (10 năm). Sự hạn chế về thời gian từ chối quyền hưởng di sản không thể thực hiện được khi mà người thừa kế từ chối nhận di sản sau thời hạn luật định đó, sự từ chối quá hạn định thì vô hiệu, người từ chối quá hạn bắt buộc phải nhận di sản. Trong trường hợp này người từ chối thừa kế buộc phải tham gia quan hệ thừa kế trái với quyền tự định đoạt ý chí của người đó mà pháp luật cho phép. Hơn nữa, sự từ chối quyền hưởng di sản không được thừa nhận đó đã quá hạn luật định mà người thừa kế vẫn quyết định từ chối quyền hưởng di sản, thì phần di sản bị từ chối hưởng

không hợp pháp sẽ do ai hưởng và hưởng như thế nào?... Đây là một trong những vấn đề còn gây băn khoăn, thắc mắc của các nhà áp dụng pháp luật, cũng là điểm hạn chế của PLVTK Việt Nam so với các nước trong khu vực.

* Về thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi

Theo quy định BLDS thừa kế thế vị phải là người cùng huyết thống với người để lại di sản. Con thay thế vị trí của bố hoặc mẹ để nhận di sản từ ông bà nội, ngoại hoặc cụ nội, cụ ngoại, nếu bố mẹ đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với những người này. Trong khi đó, giữa người nhận nuôi con nuôi với cha, mẹ nuôi của người đó chỉ tồn tại quan hệ nuôi dưỡng, còn giữa con nuôi của người nhận nuôi con nuôi và cha, mẹ nuôi của người đó không tồn tại bất cứ quan hệ nào. Người con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ người nuôi dưỡng. Giữa người con nuôi với cha mẹ đẻ của người nhận nuôi con nuôi không có quan hệ huyết thống và không có quan hệ nuôi dưỡng. Vì thế, Điều 678 quy định trong trường hợp người nhận nuôi con nuôi chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha mẹ đẻ của họ mà người con nuôi của họ được thừa kế thế vị là mâu thuẫn với Điều 677 BLDS 2005, không đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, đồng thời không phù hợp thực tế.

Bốn là, PLVTK hiện hành vẫn tồn tại một số hạn chế về kỹ thuật lập pháp.

Xét về mặt kỹ thuật pháp lý, PLVTK hiện hành có nhiều điểm không hợp lý với nội dung cũng như việc sắp xếp các điều luật. Ví dụ như chương chia thừa kế theo di chúc, Điều 650 quy định di chúc bằng văn bản, trong đó kể tên 4 loại di chúc bằng văn bản, nhưng ngay sau đó Điều 651 lại quy định về di chúc miệng và các quy định chung khác, sau đó các Điều 653, Điều 654, Điều 655, Điều 656, Điều 657 mới quy định 3 loại di chúc đều bằng văn bản đã được liệt kê ở Điều 650 và từ Điều 657, Điều 659 lại quy định các trường hợp khác nhau của việc xác lập, xác nhận, chứng nhận, chứng thực vào di chúc. Điều 660 lại quy định lại hình thức di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc bằng công chứng, chứng thực. Các quy định đứt quảng như trên không tạo ra sự liền mạch về cùng một vấn đề, gây khó khăn cho việc đối chiếu và áp dụng cũng như việc tìm hiểu pháp luật về thừa kế của nhân dân.

Trong PLVTK hiện hành vẫn còn tồn tại một số điều luật chưa chắt chẽ. Ví dụ Điều 767 BLDS 2005 Theo khoản 1 Điều 767 "thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết". Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 767 thì "quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản". Rõ ràng là có sự mâu

thuẫn giữa hai quy phạm xung đột trong một điều luật và sự mâu thuẫn này dẫn đến sự phức tạp trong áp dụng pháp luật. Chẳng hạn công dân Việt Nam chết để lại di sản là ruộng đất ở nước Pháp, để giải quyết khối di sản này, chính quyền Pháp căn cứ vào Khoản 1 Điều 767 BLDS 2005 thì người thừa kế là công dân Việt Nam không được hưởng thừa kế khối di sản là ruộng đất, nhưng nếu áp dụng khoản 2 Điều 767 thì người thừa kế là công dân Việt Nam được hưởng thừa kế khối di sản này. Đây là một điểm hạn chế lớn trong Bộ luật Dân sự, vì vậy cần phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung tạo điều kiện thuận lợi trong áp dụng pháp luật về thừa kế.

* Nguyên nhân của hạn chế.

Trên đây, là những hạn chế cơ bản của PLVTK của Việt Nam. Những hạn chế đó xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, "Việt Nam mới thực hiện đường lối mở cửa được 20 năm. Trong một khoảng thời gian đó, một loạt quá trình chuyển đổi cùng đồng thời diễn ra trong xã hội: chuyển đổi từ nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp sang nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường" [58, tr.86]. Bản thân nền kinh tế thị trường đòi hỏi người ta phải tự tính toán để tồn tại và phát triển, cho nên những chuẩn mực xã hội, đạo đức, quan niệm về gia đình, giá trị xã hội cũng có những biến đổi to lớn. Do vậy, không thể tránh khỏi tình trạng lạc hậu của pháp luật nói chung và PLVTK nói riêng.

Hai là, trong điều kiện còn là một nước đang phát triển, hệ thống pháp luật của thời kỳ mới đang hình thành ở mức độ khiêm tốn, Việt Nam lại đứng trước những thách thức to lớn của quá trình toàn cầu hoá. Gắn liền với quá trình toàn cầu hoá, các quy định pháp luật của mỗi quốc gia cũng như các định chế quốc tế, đang được chuẩn mực hoá, quốc tế hoá. Trong khi đó hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, PLVTK nói riêng vừa phải đáp ứng nhu cầu nội tại của nền kinh tế mới vừa phải thích ứng với luật pháp quốc tế đang vận động. Vì thế, thật khó có được những quy định đầy đủ, toàn diện trong một thời gian ngắn.

Ba là, do chưa sử dụng thích đáng các chuyên gia, nhà khoa học trong việc soạn thảo và thẩm tra dự án luật.

Pháp luật hiện hành chỉ quy định sự tham gia của các nhà khoa học trong thành phần ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, nhưng trên thực tế hoạt động của ban soạn thảo luật còn có mức độ, mọi việc liên quan đến việc soạn thảo chủ yếu diễn ra ở tổ biên tập. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không quy định sự tham gia của các nhà khoa học trong tổ biên tập dự án luật, pháp lệnh nên trong thực tế thực

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 29/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí