Hoàn thiện pháp luật về an ninh mạng - 2


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ AN NINH MẠNG CỦA VIỆT NAM‌


I. Pháp luật về An ninh mạng của Việt Nam

Dân số thế giới hiện nay được ước tính vào khoảng 7,7 tỉ người, xấp xỉ 55% số đó có tiếp cận với mạng Internet1. Mạng, thiết bị và dịch vụ công nghệ thông tin ngày càng quan trọng đối với cuộc sống hàng ngày. Những nguy cơ nguy hiểm tới từ không gian mạng là hiện hữu đối với bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội. Cũng như thế giới thực, thế giới mạng cũng phải đối mặt với hàng loạt các mối đe dọa an ninh to lớn.

Cùng với sự phát triển của mạng máy tính, những tầng lớp người mới được sinh ra, đó là những hacker. Hacker là khái niệm có lẽ không còn xa lạ đối với xã hội, họ có đam mê và trình độ cao đối với máy tính, công nghệ thông tin. Nhìn chung, Hacker chia thành hai phái: phái thứ nhất nghiên cứu, khám phá công nghệ tin học để báo cho các nhà quản trị hệ thống thông tin, tìm cách phòng ngừa, sửa chữa, khắc phục nhằm bảo vệ cho hệ thống – đó là các hacker mũ trắng (white-hat hacker). Phái thứ hai muốn tấn công hệ thống, lấy cắp thông tin, tiền bạc hoặc chỉ để ghi lại tên tuổi của mình cho nổi tiếng – đó là các hacker mũ đen (black-hat hacker). Loại hacker mũ đen này hết sức nguy hiểm do trình độ cao kèm theo mục đích đen tối của chúng. Hacker mũ đen là một trong những nguyên nhân chính của tội phạm mạng hoặc khủng bố mạng, gây rối loạn an ninh mạng nói chung.

Tình hình an ninh mạng trên thế giới cũng như nước ta hiện nay diễn biết rất phức tạp. Tin tặc, tội phạm mạng ngày càng có nhiều thủ đoạn, chiêu trò nhằm mục đích xấu như đánh cắp thông tin, tống tiền, bôi nhọ danh dự, phá hoại an ninh quốc gia, trật tự xã hội,... Từ đó nảy sinh yêu cầu cấp thiết về những biện pháp đối phó, phòng ngừa và xử lý tình trạng trên. Bên cạnh những giải pháp mang tính kỹ thuật thì căn cứ pháp lý, nền tảng pháp luật sẽ là cơ sở vững chắc để thực thi chính sách, hoạt động phòng ngừa, ứng phó với các nguy nguy cơ đe dọa an ninh mạng của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân.


1 Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới. Tham khảo tại: https://www.worldbank.org/. Truy cập ngày 14/04/202


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Sự phát triển của các hành vi trên không gian mạng từ giả mạo, đánh cắp thông tin đến tống tiền, phá hoại hệ thống hay cao hơn là đe dọa đến an ninh quốc gia, an toàn trật tự xã hội đặt ra vấn đề về nhu cầu pháp luật để điều chỉnh phù hợp cho từng hành vi, hoạt động và hậu quả mà chúng gây ra. Cụ thể với Việt Nam, có một giai đoạn chúng ta chỉ dựa vào các nghị định và hướng dẫn của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính và quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng, cùng với một số thông tư hướng dẫn thực hiện2. Kể cả khi có sự ra đời của Luật An toàn thông tin mạng (LATTTM) vào năm 20153, việc nhận diện, đánh giá và xử lý các hành vi trên không gian mạng vẫn chưa chính xác, chưa tiếp cận bao quát, đúng bản chất. Việc xử lý tình hình an ninh mạng phát triển từ những giải pháp mang tính kỹ thuật tới những biện pháp an ninh, biện pháp xã hội và không thể thiếu là biện pháp pháp lý.

Từ năm 1997 chúng ta bắt đầu tiếp cận và sử dụng Internet. Theo thống kê của Báo cáo Digital Marketing Việt Nam 2019, sau hơn 20 năm phát triển, nước ta có 64 triệu người dùng Internet. Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 ở khu vực châu Á. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam chưa đáp ứng được theo xu thế và tốc độ phát triển này.

Hoàn thiện pháp luật về an ninh mạng - 2

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh mạng, cụ thể là Luật An ninh mạng (LANM) là yêu cầu hết sức cấp thiết, là cơ sở pháp lý quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; tạo hành lang pháp lý để nâng cao năng lực bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, góp phần bảo đảm chủ quyền, an ninh, trật tự và xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh trên không gian mạng.

Trước khi LANM được ban hành, các vấn đề của an ninh mạng đã được quy định rải rác tại nhiều văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau, tổng hợp thành các nguyên tắc, yêu cầu và trách nhiệm của các bên liên quan về an toàn


2 Nghị định số 28/2009/NĐ-CP, Nghị định Quy định xử phạt hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet (Hết hiệu lực ngày 15/01/2014).

3 Luật số 86/2015/QH13, Luật An toàn thông tin mạng


thông tin mạng, quản lý về mặt nội dung các thông tin được đăng tải trên không gian mạng và bảo mật dữ liệu người dùng trong môi trường Internet. Một số văn bản có thể kể đến như: Luật An toàn thông tin mạng 2015 (LATTTM); Luật Viễn thông 2009; Luật giao dịch điện tử 2005;... Các quy định này được thể hiện chung chung và không rõ ràng, có khả năng tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước giải thích và áp dụng một cách tùy tiện, đồng thời gây khó khăn cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng và tăng nguy cơ xâm phạm các quyền cơ bản của công dân liên quan đến tự do ngôn luận và bảo mật thông tin cá nhân,... và trên hết là chúng chưa có tính thống nhất và cụ thể hóa.

Do các căn cứ pháp luật có liên quan đến vấn đề an ninh mạng nằm ở nhiều văn bản khác nhau nên nghiên cứu sẽ không đi sâu vào nội dung của chúng mà sẽ đưa ra so sánh tương quan đối với LANM ở phần sau.

1.Một số nội dung chính của Luật An ninh mạng:

LANM của Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 5, với tỷ lệ 86.86%, gồm 7 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cụ thể là:

Thứ nhất, quy định các khái niệm cơ bản và chính sách của Nhà nước về an ninh mạng; nguyên tắc và biện pháp bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ không gian mạng quốc gia; hợp tác quốc tế về an ninh mạng; các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng; xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng. Đây là cơ sở để xác định phạm vi đấu tranh, biện pháp áp dụng, các hành vi vi phạm và cách thức phòng ngừa, xử lý các hành vi này cũng như triển khai công tác nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về an ninh mạng.

Thứ hai, quy định các hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Với các quy định về thẩm định, kiểm tra, đánh giá điều kiện, ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng được quy định tại Chương II, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ chặt chẽ từ bên


trong. Với các biện pháp bảo vệ an ninh mạng, xử lý các hành vi tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt thông tin thuộc bí mật nhà nước, các hành vi chống, phá Nhà nước được quy định tại Chương I, Chương III, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ từ bên ngoài. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, thể hiện sự bảo vệ tương xứng với vai trò của hệ thống thông tin an ninh quốc gia.

Thứ ba, đưa ra các quy định nhằm tạo nền tảng pháp lý trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân trên không gian mạng, như soạn thảo, đăng tải thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng, làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; sử dụng không gian mạng để tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; tấn công mạng... Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm kết bạn, trao đổi, buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng.

Thứ tư, tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai, hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Kết cấu hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ cùng sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ bị xử lý nghiêm minh; hành vi xâm phạm an ninh mạng sẽ được phát hiện, cảnh báo kịp thời. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng, nâng cao


năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cũng được quy định chi tiết, là nền tảng pháp lý quan trọng triển khai công tác an ninh mạng hiện tại và tương lai.

Thứ năm, tạo cơ sở pháp lý quan trọng thực thi chính sách của Nhà nước về bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu quốc gia trên không gian mạng. Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, LANM đã quy định các doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống tội phạm trước các diễn biến phức tạp của hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, thương mại điện tử, kinh doanh tiền ảo, tiền điện tử thời gian qua.

Thứ sáu, tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng, xây dựng và hình thành lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất lượng cao. Chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân với mục tiêu tham gia không gian mạng an toàn, lành mạnh, hạn chế tối đa nguy cơ, tác động tiêu cực, phát huy tối đa hiệu quả.

Thứ bảy, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động trên không gian mạng, tập trung vào việc xác định trách nhiệm của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.4 Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các bộ, ngành chức năng, ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện đồng bộ các biện pháp được phân công để hướng tới một không gian mạng ít nguy cơ, hạn chế tối đa các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng.

4 Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an Nguyễn Minh Chính, “Hoàn thiện pháp luật về an ninh mạng trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, đăng ngày 25/09/2019.


Về nội dung chung của pháp luật an ninh mạng gồm những phần chính: An ninh mạng về mặt kỹ thuật; Quản lý nội dung thông tin trên mạng; Bảo mật dữ liệu cá nhân; Các biện pháp áp dụng để bảo vệ an ninh mạng; Hợp tác quốc tế và địa phương hóa dữ liệu nhằm phát triển cũng như quản lý tốt hơn tình hình an ninh mạng. Những nội dung này được đưa vào trong pháp luật kết hợp cùng với chiến lược không gian mạng, chính sách thực thi sẽ tạo ra hiệu quả cao trong công tác bảo vệ, bảo đảm an ninh mạng.

Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng của LANM. Quy định các biện pháp, hoạt động bảo vệ tương xứng với mức độ quan trọng của hệ thống thông tin này, trong đó nêu ra tiêu chí xác định, lĩnh vực liên quan, quy định các biện pháp như thẩm định an ninh mạng, đánh giá điều kiện, kiểm tra, giám sát an ninh và ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

Để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, LANM đã dành riêng Chương III quy định đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý nhằm loại bỏ các nguy cơ đe dọa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm: phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phòng, chống gián điệp mạng, bảo vệ thông tin bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; phòng ngừa, xử lý hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; phòng, chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố mạng; phòng, chống chiến tranh mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về an ninh mạng; đấu tranh bảo vệ an ninh mạng. Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng.

Chương IV của LANM tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai,


hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ, sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ được xử lý nghiêm minh. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cũng được quy định chi tiết trong Chương này.

Nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của công tác bảo vệ an ninh mạng. Chương V của LANM đã quy định các nội dung bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng, xác định lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất lượng cao, chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng.5

Luật cũng nghiêm cấm các hành vi tội phạm mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng. (Bao gồm: Chiếm đoạt, mua bán, thu giữ, cố ý làm lộ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư gây ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc bí mật cá nhân, bí mật gia đình, đời sống riêng tư trái quy định của pháp luật;...).

2.Nguyên tắc và chính sách về bảo vệ An ninh mạng của Việt Nam

Đối với Việt Nam, trong quá trình triển khai thực hiện bảo vệ an ninh mạng cần tuân thủ các nguyên tắc đã định rõ trong LANM:

- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất


5 Hiểu về Luật an ninh mạng”. Tham khảo tại: http://tuyengiao.vn/ban-can-biet/hieu-ve-luat-an-ninh-mang- 113375. Truy cập ngày 06/05/2020


của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc; phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng.

- Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng.

- Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh, làm thất bại mọi hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; sẵn sàng ngăn chặn các nguy cơ đe dọa an ninh mạng.

- Triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia; áp dụng các biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

- Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được thẩm định, chứng nhận đủ điều kiện về an ninh mạng trước khi đưa vào vận hành, sử dụng; thường xuyên kiểm tra, giám sát về an ninh mạng trong quá trình sử dụng và kịp thời ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng.

- Mọi hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh.

LANM nêu ra chính sách của Nhà nước về an ninh mạng với những định hướng phát triển và ưu tiên đối với từng lĩnh vực:

Thứ nhất, ưu tiên bảo vệ an ninh mạng trong quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và đối ngoại. Rõ ràng, đây phải là vấn đề hàng đầu cần quan tâm, các lĩnh vực được nêu ra đều là những lĩnh vực chủ chốt, quan trọng và có sức ảnh hưởng lớn tới hoạt động của quốc gia.

Thứ hai, xây dựng không gian mạng lành mạnh, không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bảo đảm và duy trì các hoạt động diễn ra bình thường, hợp pháp trên môi trường mạng.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 11/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí