Kiểm Tra, Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Tại Các Quỹ Đầu Tư


- Tổng hợp báo cáo đầu tư: Các báo cáo phân tích chi tiết và báo cáo dự đoán, báo cáo định giá doanh nghiệp sẽ được tổng hợp thành báo cáo phân tích đầu tư. Việc tư vấn cho các nhà đầu tư sau đó sẽ được dựa trên cơ sở chủ yếu là báo cáo phân tích

đầu tư này.

Toàn bộ quy trình phân tích của các công ty tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư, kể từ lúc bắt đầu tiếp xúc doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu thập số liệu đến thời điểm hoàn tất phân tích kéo dài trong khoảng 2 tuần. Nhân sự thực hiện phân tích tài chính là các chuyên viên phân tích của công ty, hầu hết được đào tạo chuyên ngành về quản trị tài chính, kế toán, kiểm toán, có trình độ khá cao và kinh nghiệm dày dạn. Công việc phân tích và đánh giá kết quả thông thường được thực hiện theo nhóm công tác để có thể tận dụng trí tuệ tập thể, giảm thiểu các nhầm lẫn, sai sót hoặc đánh giá thiên lệch trong quá trình phân tích.

Quá trình “hậu phân tích báo cáo tài chính” tại các công ty này cũng được tổ chức khá bài bản. Mặc dù đ` xây dựng được báo cáo phân tích và báo cáo đầu tư, định giá doanh nghiệp, nhưng các báo cáo này còn được thẩm định lại nhiều lần, được xem xét kết hợp với các thông tin phi tài chính, thông tin thị trường, thông tin chính sách khác... để có thể ra quyết định đầu tư. Theo thông tin cung cấp từ các nhà quản lý các công ty tư vấn, thời gian ước tính từ lúc bắt đầu phân tích đến lúc ra quyết định đầu tư thường kéo dài khoảng 4 tháng.

Như vậy, có thể thấy quy trình phân tích ở các công ty này đối với báo cáo tài chính doanh nghiệp nói chung và báo cáo tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng

được tiến hành có quy trình, thủ tục, phương pháp rất khoa học và chuyên nghiệp. Thông tin đảm bảo sự thận trọng thích đáng, nên các kết quả phân tích của các công ty này thường có độ tin cậy cao.

Minh hoạ về quy trình phân tích báo cáo tài chính của công ty PTI CoLtd được trình bày trong phần phụ lục số 20,21,22,23.

2.4.4. Kiểm tra, Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các quỹ đầu tư

Cùng với sự phát triển của đầu tư, sự phát triển của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, các loại hình khác nhau của quỹ đầu tư cũng dần dần được hình thành và phát triển ở Việt Nam trong mấy năm gần đây. Để có thể nghiên cứu mục

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 299 trang tài liệu này.

đích, động cơ và phương pháp phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ của


các quỹ đầu tư, cần nắm được đặc trưng về cơ chế hoạt động của các qũy này cũng như các công ty quản lý quỹ.

Quỹ đầu tư có thể hiểu là một định chế trung gian phi ngân hàng, hoạt động theo cơ chế thu hút tiền nhàn rỗi từ nhiều nguồn khác nhau (cá nhân, tổ chức) để đầu tư vào các loại cổ phiếu công ty, trái phiếu, tiền tệ, bất động sản hoặc các loại tài sản khác nhằm thu lợi nhuận. Các quỹ đầu tư thường huy động vốn từ rất nhiều cá nhân, tổ chức, theo cách phối hợp sức mạnh của số đông, dù vốn của mỗi cá nhân góp vào quỹ có thể rất nhỏ, nhưng tổng quỹ thì có thể là những con số khổng lồ. Do liên quan đến lợi ích của rất nhiều người, các quỹ đầu tư thường được quản lý chuyên nghiệp bởi các công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và các cơ quan thẩm quyền khác. Có thể hình dung cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư thông qua mô hình sau:


Hình 2 1 Cơ chế hoạt động của các quỹ đầu tư Các quỹ đầu tư ngày càng 1


Hình 2.1: Cơ chế hoạt động của các quỹ đầu tư

Các quỹ đầu tư ngày càng được chú trọng phát triển do những ưu điểm như: giảm thiểu chi phí hoạt động, chi phí đầu tư, giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hoá được danh mục đầu tư, lợi nhuận cao, quản lý chuyên nghiệp.


Thực chất về hoạt động của công ty quản lý quỹ là thực hiện chức năng về quản lý vốn tài sản thông qua việc đầu tư theo danh mục đầu tư hiệu quả nhất làm gia tăng giá trị của quỹ đầu tư.


Một trong những hoạt động chủ yếu của công ty quản lí qũy đầu tư là dịch vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính, hỗ trợ khách hàng tối ưu hoá hiệu quả và hạn chế rủi ro của các khoản đầu tư thông qua các công cụ tài chính. Căn cứ chủ yếu của dịch vụ này là việc phân tích báo cáo tài chính của các doanh nghiệp dự định đầu tư. Hiện nay, có khá nhiều quỹ đầu tư đang quan tâm tới loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Ngoài ra, một số công ty quản lí qũy lớn còn tiến hành các hoạt động phân tích, đánh giá thị trường nhằm hỗ trợ các hoạt động đầu tư và tư vấn nói trên.


Công tác phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ của các quỹ đầu tư và các công ty quản lý quỹ đầu tư nhìn chung cũng được tiến hành khá chặt chẽ và bài bản. Quy trình thu thập số liệu, kiểm tra số liệu, lập kế hoạch phân tích, lựa chọn phương pháp phân tích, tiến hành phân tích, lập báo cáo phân tích nhìn chung được tiến hành theo các bước tương tự như tại các công ty tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính.

Tuy nhiên, việc sử dụng thông tin phân tích tương đối khác so với tại các công ty tư vấn. Việc đánh giá và sử dụng kết quả báo cáo phụ thuộc vào tính chất của qũy đầu tư:

Trong trường hợp quỹ đầu tư mạo hiểm, thông tin phân tích báo cáo tài chính chỉ là thông tin tham khảo có vai trò không trọng yếu trong việc ra quyết định đầu tư. Bởi

đối với các khoản đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư thường chấp nhận rủi ro khá cao, quyết định đầu tư căn cứ chủ yếu trên các thông tin về triển vọng phát triển của ngành, của doanh nghiệp, lòng tin vào hiệu quả kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp

được đầu tư.

Đối với các quỹ đầu tư thông thường, quyết định đầu tư lại chủ yếu dựa vào các kết quả phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp.

Trường hợp đầu tư chứng khoán, việc phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp còn kết hợp với việc định giá cổ phần của công ty được đầu tư. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không được niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nhưng vẫn có thể giao dịch phát hành, mua bán cổ phần trên thị trường OTC.

2.4.5. Kiểm tra, Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các cơ quan quản lý nhà nước

Các cơ quan quản lý nhà nước về doanh nghiệp và pháp luật kinh doanh bao gồm: cơ quan quản lý kinh doanh (Cục quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trực thuộc Bộ


Kế hoạch đầu tư, các Sở kế hoạch đầu tư), cơ quan thống kê nhà nước, cơ quan thuế. Mỗi cơ quan quản lý nhà nước khác nhau tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ và quản lý nhà nước của mình mà tiếp cận với việc phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các góc độ khác nhau.

Các cơ quan quản lý kinh doanh và cơ quan thống kê thường chỉ thu thập số liệu báo cáo tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ và sử dụng chủ yếu cho mục đích thống kê, nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống kê doanh nghiệp, tính toán các chỉ tiêu kinh tế của từng loại hình doanh nghiệp, loại hình kinh doanh, vùng kinh tế. Các cơ quan này không trực tiếp phân tích báo cáo tài chính của từng doanh nghiệp vừa và nhỏ cụ thể mà thường tiến hành phân tích các số liệu đ` tổng hợp từ báo cáo của các doanh nghiệp (đ` được phân loại theo các tiêu thức nhất định).

Trong số các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thuế là đơn vị quản lý trực tiếp và sâu sát nhất đối với tình hình kinh doanh và tình hình thực hiện chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, cơ quan thuế không có bộ phận chuyên trách cũng như không có nhiệm vụ phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tính toán và phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có thể được thực hiện tại hai khâu công việc:

- Cán bộ thuế chuyên quản doanh nghiệp và bộ phận quản lý doanh nghiệp của các chi cục, cục thuế địa phương, là những người trực tiếp nhận báo cáo tài chính mà doanh nghiệp vừa và nhỏ lập, nộp định kì. Đây là những người có trách nhiệm giám sát tình hình thực hiện pháp luật về kinh doanh và nghĩa vụ của doanh nghiệp vừa và nhỏ

đối với nhà nước. Chính vì vậy, việc phân tích báo cáo tài chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ của cơ quan thuế chỉ chủ yếu tập trung vào tính tuân thủ. Cán bộ thuế sẽ chỉ phân tích một vài chỉ tiêu mang tính chất kiểm tra tính chính xác và hợp lý của số liệu, nhằm loại trừ những sai lệch có thể ảnh hưởng tới nghĩa vụ của doanh nghiệp với nhà nước. Ví dụ như, cán bộ thuế thông thường chỉ tính toán các chỉ tiêu: Giá vốn/Doanh thu so sánh với chỉ tiêu này của ngành (tính theo kinh nghiệm) để xem xét giá vốn của doanh nghiệp có hợp lý so với ngành nghề và loại hình kinh doanh không, nhằm phát hiện các trường hợp doanh nghiệp vừa và nhỏ khai tăng giá vốn và giảm doanh thu để giảm lợi nhuận chịu thuế. Hoặc tính chỉ tiêu Khoản mục chi phí/Tổng giá thành sản phẩm và so sánh với toàn ngành để kiểm tra mức độ hợp lý của giá thành sản phẩm, các chi phí vượt so với bình quân của ngành thường sẽ bị loại trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Cán bộ thuế còn tính toán các chỉ tiêu liên quan đến sức sinh lời của tài sản, vốn


để xác định mức thuế tạm nộp cho doanh nghiệp hay để so sánh, đối chiếu với số thuế mà doanh nghiệp vừa và nhỏ đ` nộp. Nói chung, việc phân tích báo cáo tài chính của các cán bộ quản lý thuế và bộ phận quản lý doanh nghiệp thuộc cơ quan thuế được thực hiện một cách đơn giản, mang nặng tính chủ quan, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của từng người, không được xây dựng quy trình cụ thể.

- Phòng Thanh tra thuế của Cục thuế các tỉnh, thành phố hoặc của Tổng cục thuế cũng tiến hành kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Tuy nhiên, việc phân tích báo cáo tài chính tại bộ phận này cũng không được tiến hành thường xuyên và không có quy trình hoàn chỉnh. Việc phân tích được tiến hành khi phát hiện có sai phạm hay khiếu nại, tố cáo liên quan đến doanh nghiệp, hoặc phân tích một số doanh nghiệp dưới dạng chọn mẫu.

Nhìn chung, cơ quan thuế tập trung xem xét báo cáo tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đảm bảo tình hình thực hiện các luật thuế, các quy định kế toán, tài chính của chế độ hiện hành. Phương pháp phân tích sử dụng khá đơn giản, chỉ bao gồm phân tích tỉ lệ kết hợp với so sánh, đối chiếu (dọc, ngang, bình quân ngành). Quy trình phân tích chưa được xây dựng chính thức và khoa học, chủ yếu dựa trên khả năng và kinh nghiệm của cán bộ có trách nhiệm. Tuy nhiên, cơ quan thuế lại là đối tượng có

ảnh hưởng rất lớn tới việc lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Cơ quan thuế có quyền xử phạt doanh nghiệp cũng như kiến nghị điều tra, truy tố các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp. Chính vì thế, phần đông các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo điều tra chủ yếu lập báo cáo tài chính để đối phó với cơ quan thuế.


Nói tóm lại, trong số các chủ thể có thực hiện nghiệp vụ phân tích báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ có các đơn vị chuyên hoạt động trong lĩnh vực tài chính như các công ty kiểm toán, các công ty tư vấn đầu tư, các quỹ đầu tư, các ngân hàng là có tiến hành tổ chức phân tích một cách có khoa học, có ban hành quy trình phân tích như một quy trình nghiệp vụ của công ty, sử dụng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích khá đầy đủ. Các chủ thể còn lại bao gồm bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cơ quan quản lý nhà nước, các đối tượng khác có quan tâm (các nhà nghiên cứu, học viện, trường, các chủ sở hữu doanh nghiệp,...) cũng có tiến hành phân tích báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng chỉ dừng lại ở mức

độ tự phát với các phương pháp đơn giản, không theo một quy trình khoa học.



2.5. đánh giá thực trạng Kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở việt nam

2.5.1. Khái quát về tình hình thực tế hoạt động kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính trong các DN vừa và nhỏ ở việt nam

Để có thể đánh giá đúng thực trạng hoạt động kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, cần thiết phải gắn những nghiên cứu về kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính với lịch sử phát triển của chế độ kế toán và chế độ báo cáo tài chính dành cho loại hình này, đồng thời cần xem xét chúng trong môi trường phát triển kinh tế cụ thể.

Trong giai đoạn trước đổi mới từ năm 1986 trở về trước, do điều kiện lịch sử, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập và hoạt động rất ít, không có những

đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. Thời kì này, loại hình doanh nghiệp chủ yếu hoạt

động là các xí nghiệp quốc doanh. Trong thời kì này, có thể nói hoạt động phân tích báo cáo tài chính của các xí nghiệp ngoài quốc doanh gần như không được quan tâm. Sau thời kì đổi mới, nhất là thời kì 10 năm sau đổi mới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có sự phát triển bùng nổ, do chính sách phát triển nền kinh tế thị trường, đa dạng hoá sở hữu và đa dạng hoá các thành phần kinh tế, chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển của nhà nước. Đồng thời, hình hài của một nền kinh tế thị trường cũng dần được thể hiện rõ nét hơn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải tồn tại, cạnh tranh không chỉ trong khu vực ngoài quốc doanh mà còn phải chấp nhận sự cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp Nhà nước. Đây cũng là thời điểm mà hiệu quả kinh tế là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong mọi lĩnh vực. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng nhận thức

được tầm quan trọng của thông tin kế toán, vai trò của phân tích báo cáo tài chính đối với việc ra quyết định kinh doanh và quản trị tài chính doanh nghiệp. Hơn bao giờ hết, nhà quản trị phải nắm bắt được các vị trí tài chính, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình. Không những thế, các nhà quản trị còn phải quan tâm đến các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành, quan tâm tới các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, hoạt động phân tích báo cáo tài chính cũng là mối quan tâm lớn của nhiều chủ thể khác trong nền kinh tế, do số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số trong tổng số lượng các doanh nghiệp hoạt động. Các nhà đầu tư cũng quan tâm nhiều hơn. Ngân hàng và các tổ chức tài chính, tín dụng cũng coi các doanh nghiệp vừa và nhỏ như những đối tác chủ yếu...


Bên cạnh thực tế hoạt động phân tích báo cáo tài chính đang ngày càng được chú trọng bởi các chủ thể kinh tế, hệ thống cơ sở lý luận về phân tích báo cáo tài chính cũng phát triển khá rõ nét. Phân tích báo cáo tài chính được đào tạo cho sinh viên, học viên, cán bộ của các chuyên ngành kế toán, kiểm toán, tài chính, quản trị kinh doanh... Tại một số trường đại học khối kinh tế, phân tích báo cáo tài chính trở thành một môn học chính thức và độc lập. Cũng có nhiều nhà khoa học, chương trình, dự án phát triển doanh nghiệp quan tâm tới các đề tài nghiên cứu về phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Hệ thống lý luận về phân tích báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp được xây dựng và hoàn thiện dần, cho dù còn nhiều điểm chưa bắt kịp với mặt bằng chung của thế giới.

Nhìn chung, đến thời điểm hiện nay, phân tích báo cáo tài chính nói chung và phân tích báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng đ` có sự phát triển đáng kể cả về lý luận và thực tiễn. Trong điều kiện hội nhập và phát triển của nền kinh tế, sự phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán, chắc chắn, việc kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ ngày càng được chú trọng hơn và ngày càng trở thành công cụ đắc lực của quản trị tài chính doanh nghiệp.


2.5.2. Một số tồn tại trong kiểm tra báo cáo tài chính các DN vừa và nhỏ ở Việt Nam

Bên cạnh bức tranh chung tương đối khả quan như đ` phân tích ở trên, về cả lý luận và thực tiễn áp dụng, việc kiểm tra báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Nhìn nhận và đánh giá đúng những khuyết điểm, tồn tại này là điều kiện cần thiết để có thể hoàn thiện công tác kiểm tra báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần tăng cường quản trị tài chính tại các doanh nghiệp này. Qua những nghiên cứu lý luận và thực tế, có thể thấy công tác kiểm tra báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam còn một số tồn tại sau:

- Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay thực hiện kiểm tra báo cáo tài chính chủ yếu để phục vụ mục tiêu kiểm tra độ chính xác của các chỉ tiêu, các tính toán trên hệ thống báo cáo tài chính của mình. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung cũng như các chủ sở hữu và nhà quản trị của các doanh nghiệp này


nói chung chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc kiểm tra báo cáo tài chính đối với việc cung cấp thông tin đầu vào phục vụ việc ra quyết định của quản trị tài chính doanh nghiệp, chưa thấy được vai trò của kiểm tra báo cáo tài chính với việc quản lý, giám sát việc sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp, hay với việc điều tiết và thúc

đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chủ thể tiến hành kiểm tra chủ yếu nhằm vào việc phát hiện ra sai sót hoặc gian lận trong quá trình lập và trình bày báo cáo tài chính, chứ chưa đi sâu vào nguồn gốc của số liệu báo cáo là các hoạt

động kinh tế và thực tế kinh doanh của đơn vị.

- Chủ thể tiến hành kiểm tra không có đủ tính độc lập cần thiết đối với đối tượng

được kiểm tra. Như đ` trình bày ở phần trên, hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có bộ phận hay nhân lực chuyên trách chức năng kiểm tra báo cáo tài chính. Nhân lực phục vụ việc kiểm tra báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các nhân viên kế toán của doanh nghiệp. Việc bố trí nhân sự kiểm tra như vậy đ` vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm trong phân công công việc kế toán, dẫn đến sự thiếu độc lập của người kiểm tra đối với quá trình lập và trình bày báo cáo. Người kiểm tra đồng thời cũng là người lập báo cáo kế toán. Như vậy, yêu cầu khách quan trong công tác kiểm tra không được đảm bảo, những sai sót và gian lận nếu có cũng khó có thể được phát hiện. Một số doanh nghiệp vừa và nhỏ (chủ yếu thuộc loại hình công ty cổ phần), có bổ nhiệm vị trí Kiểm soát viên hay thành lập Ban Kiểm soát, tuy nhiên, vấn đề cũng không khả quan hơn khi Kiểm soát viên hoặc Trưởng ban kiểm soát lại thường là Kế toán trưởng doanh nghiệp. Hơn nữa, một số công ty bố trí Kiểm soát viên hoặc Ban Kiểm soát trực thuộc quyền quản lý của Giám đốc (Tổng giám đốc). Điều này cũng là không phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy kiểm tra báo cáo tài chính doanh nghiệp.

- Việc quản lý báo cáo kiểm tra, biên bản kiểm tra kết quả kiểm tra nói chung cũng còn nhiều vấn đề cần được xem xét. Trong nhiều trường hợp, như đ` phân tích ở trên, do nhân sự thực hiện chức năng kiểm tra được bố trí trực thuộc các nhà quản trị (Giám đốc, Tổng giám đốc), nên các kết quả kiểm tra lại được cung cấp trực tiếp cho các đối tượng này. Trong khi bản thân các nhà quản trị lại là những người chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tức là người ảnh hưởng trực tiếp đến thông tin trên báo cáo tài chính. Đối với các doanh nghiệp có sự tách biệt

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/01/2023