rõ ràng giữa chủ sở hữu vốn và người quản lý, sử dụng vốn thì quy trình xử lý kết quả kiểm tra như trên là không hợp lý.
- Phạm vi kiểm tra thường khá hạn hẹp, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là do nhu cầu của người nhận thông tin sau các cuộc kiểm tra. Hầu hết các
đối tượng sử dụng thông tin chỉ quan tâm tới một số chỉ tiêu như Doanh thu, chi phí, Lợi nhuận của doanh nghiệp. Hạn chế ngay từ những nhu cầu thông tin căn bản này dẫn
đến người thực hiện kiểm tra sẽ thu hẹp phạm vi cần kiểm tra lại, tập trung vào một số chỉ tiêu nhất định trên báo cáo theo yêu cầu của đối tượng sử dụng thông tin. Điều này làm cho kết quả kiểm tra mất đi phần nào tính khách quan do thiếu sự liên kết giữa chỉ tiêu được kiểm tra với các chỉ tiêu khác trên báo cáo tài chính và với tổng thể hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phương pháp kiểm tra báo cáo tài chính được áp dụng tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá đơn giản, thường thiếu sự áp dụng kết hợp của nhiều phương pháp kiểm tra cho cùng một chỉ tiêu hay một đối tượng kiểm tra làm cho khả năng phát hiện ra các vấn đề sai sót, gian lận hay khả năng nắm bắt những điểm không hợp lý trong việc quản lý tài chính tại công ty bị giảm sút.
Những tồn tại trong kiểm tra báo cáo tài chính kể trên cần nhanh chóng được giải quyết nhằm đảm bảo việc kiểm tra báo cáo tài chính thực hiện tốt vai trò cung cấp thông tin hợp lý, chính xác cho quá trình phân tích báo cáo tài chính và thực hiện tốt vai trò của mình trong quá trình quản trị tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.5.3. Những tồn tại trong phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
2.5.3.1. Một số tồn tại trong nguyên tắc và phương pháp phân tích báo cáotài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ
Như chúng ta đ` biết, phân tích báo cáo tài chính đ` chính thức trở thành một môn học độc lập được đào tạo chính thức trong các chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán, đào tạo cán bộ tài chính, thuế, tín dụng... Phân tích báo cáo tài chính về cơ bản đ`
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Tại Các Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Sản Xuất Kinh Doanh
- Kiểm Tra, Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Tại Các Ngân Hàng Và Tổ Chức Tín Dụng
- Kiểm Tra, Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Tại Các Quỹ Đầu Tư
- Những Tồn Tại Trong Thực Tiễn Kiểm Tra, Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Các Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ
- Vai Trò Của Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Trong Sự Phát Triển Chung Của Nền Kinh Tế
- Hoàn Thiện Tổ Chức Kiểm Tra Báo Cáo Tài Chính
Xem toàn bộ 299 trang tài liệu này.
độc lập với môn học Phân tích hoạt động kinh doanh (phân tích kinh doanh). Tuy nhiên, thời gian xây dựng lý luận và hoàn thiện cơ sở lý luận về phân tích báo cáo tài chính chưa nhiều, hơn nữa, còn nhiều vướng mắc trong quá trình thu nhận những phản
hồi từ việc vận dụng lý luận vào thực tiễn, nên hệ thống cơ sở lý luận về phân tích báo cáo tài chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều điểm bất cập, tồn tại, cụ thể như:
2.5.3.1.1. Bất cập trong quan điểm xây dựng hệ thống báo cáo gắn với mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp.
Hệ thống báo cáo tài chính hiện hành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không hoàn toàn phù hợp với nhu cầu sử dụng thông tin và nhu cầu phân tích báo cáo tài chính. Hệ thống báo cáo hiện tại chỉ phản ánh những gì có sẵn trên các tài khoản trong kì kế toán, do vậy, kế toán lập báo cáo theo kiểu “cung cấp những gì mình có sẵn” chứ không theo quan điểm “cung cấp những gì người sử dụng cần”. Điều này dẫn tới việc phân tích báo cáo tài chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn, ngay cả về mặt lý luận, do phải thực hiện khối lượng công việc điều chỉnh báo cáo để phù hợp với mục đích và hệ thống chỉ tiêu phân tích báo cáo.
2.5.3.1.2. Tồn tại trong việc xem xét đặc thù của loại hình và quy mô doanh nghiệp trong các mô hình kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính
Chưa thực sự chú trọng đến đặc thù về mặt quản lý, kinh doanh và quản trị tài chính đối với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do quy mô doanh nghiệp là vừa và nhỏ, lượng vốn ít có ảnh hưởng rất nhiều tới quản trị kinh doanh và hạch toán kế toán. Quản trị kinh doanh nói chung và quản trị tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần mang đặc thù về quy mô doanh nghiệp. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới các vấn đề lý luận về phân tích báo cáo tài chính như tổ chức phân tích, lựa chọn hệ thống chỉ tiêu phân tích cho phù hợp, cách thức so sánh các chỉ tiêu phân tích, hay cách thức xác định các chỉ tiêu mẫu hay tiêu chuẩn phân tích cho từng ngành. Hệ thống lý luận hiện nay, thể hiện chủ yếu qua hệ thống giáo trình, bài giảng, tài liệu giảng dạy, học tập của các trường đại học, cao đẳng khối kinh tế, các văn bản về tài chính, kế toán của Nhà nước..., đều chưa có những hướng dẫn cụ thể về việc vận dụng phân tích báo cáo tài chính cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho việc vận dụng lý luận vào thực tế, vì có thể tính toán ra cùng một chỉ tiêu, cùng một con số, nhưng kết quả đánh giá phân tích sẽ khác nhau với các doanh nghiệp có quy mô khác nhau. Một tỉ suất được tính toán có thể được coi là thể hiện tình trạng tài chính tốt
đối với một doanh nghiệp lớn nhưng lại có thể thể hiện tình hình tài chính không ổn
định đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa, đối tượng sử dụng thông tin phân tích
ở mỗi quy mô doanh nghiệp khác nhau, dẫn đến quy trình và phương pháp phân tích, cách trình bày kết quả phân tích báo cáo tài chính có thể khác nhau.
2.5.3.1.3. Khó khăn trong việc xác định định mức chung của ngành để làm căn cứ so sánh kết quả kiểm tra, phân tích
Hệ thống lý luận về phân tích báo cáo tài chính và các chế độ có liên quan cũng chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu phân tích báo cáo riêng cho loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, bên cạnh đó, các hướng dẫn mang tính khuôn mẫu, định hướng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng không có hoặc không rõ ràng, thậm chí nhiều điểm còn mâu thuẫn, sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiến hành tổ chức phân tích báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, hệ thống chỉ tiêu mẫu của ngành, lĩnh vực kinh doanh để làm cơ sở cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ so sánh kết quả phân tích báo cáo tài chính cũng không được xây dựng.
2.5.3.1.4. Bất cập trong việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích và phương pháp tính toán các chỉ tiêu, vấn đề quan hệ giữa kế toán với phân tích báo cáo tài chính.
Hệ thống phương pháp phân tích, hệ thống chỉ tiêu phân tích, cách thức đánh giá các chỉ tiêu, nhận xét tình hình tài chính hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện. Việc đào tạo và phổ biến kiến thức về phân tích báo cáo tài chính và sử dụng thông tin từ phân tích báo cáo phục vụ cho xác định tình hình tài chính, dự báo tương lai... cũng không thống nhất, dẫn đến việc sử dụng kết quả phân tích rất khác nhau, có thể gây ảnh hưởng lớn tới việc ra quyết định kinh doanh.
Một số vấn đề về kế toán chưa thực sự được quan tâm khi tính toán chỉ tiêu phân tích, có thể làm kết quả tính toán bị sai lệch, dẫn đến những nhận thức sai lầm của người sử dụng thông tin như:
+ Khi tính toán các chỉ tiêu liên quan đến Tài sản hoặc Tài sản ngắn hạn, chưa có sự loại trừ cần thiết đối với số liệu phát sinh hoặc số dư của các khoản mục đặc biệt như: tài sản thiếu chờ xử lý, chi phí trả trước ngắn hạn hoặc chi phí trả trước dài hạn...
Trong tr−êng hỵp tÝnh:
Hệ số khả năng thanh toán nợ tổng quát=Tổng Tài sản/Tổng nợ phải trả. Hoặc Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn = Giá trị tài sản ngắn hạn/Tổng nợ ngắn hạn. Theo quan
điểm của tác giả, tử số của cả hai công thức trên chưa thực sự chính xác trong các tình huống sau:
Nếu trong chỉ tiêu có m` số 158 của Bảng Cân đối kế toán, bao gồm cả số dư của tài khoản 1381 “Tài sản thiếu chờ xử lý”, là những tài sản thuộc sở hữu của đơn vị nhưng hiện tại đang thiếu, mất chưa rõ nguyên nhân và chưa có biện pháp xử lý, Hệ số thanh toán tổng quát sẽ bị đẩy lên cao hơn so với khả năng thanh toán thực sự của đơn vị (do tử số bao gồm cả phần tài sản mà đơn vị chắc chắn hiện tại không nắm giữ và không chắc chắn có thu hồi được).
Thêm vào đó, theo hướng dẫn của chế độ kế toán hiện hành về lập báo cáo, trong chỉ tiêu số 158 của Bảng Cân đối kế toán còn bao gồm cả số dư của tài khoản 142 “Chi phí trả trước ngắn hạn”. Xét về bản chất của số dư tài khoản 142 có thể bao gồm các khoản như: giá trị công cụ, dụng cụ đ` xuất dùng đang chờ phân bổ trong ngắn hạn, giá trị các khoản chi phí trả trước đ` thực hiện nhưng đang chờ phân bổ (chi phí quảng cáo, chi phí sửa chữa tài sản cố định, chi phí thuê nhà xưởng, thuê đất, chi phí bảo hiểm trả trước ngắn hạn, chi phí mua tài liệu kĩ thuật, chi phí l`i tiền vay trả trước...). Đối với giá trị công cụ, dụng cụ, hay bao bì luân chuyển, đồ dùng cho thuê đang chờ phân bổ, việc ghi nhận số dư chi tiết của tài khoản 142 như một loại tài sản, có khả năng đóng góp vào thanh toán các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp là có thể chấp nhận được, do những thứ này trực tiếp tồn tại dưới hình thái vật chất cụ thể, có thể mua bán, trao đổi như các loại tài sản bình thường khác. Nhưng các khoản còn lại của số dư tài khoản 142, là tổng lượng giá trị (đo bằng tiền) mà doanh nghiệp đ` thực sự chi trả, việc tồn tại của các khoản này trên báo cáo tài chính chỉ do kĩ thuật phân bổ của kế toán, nhằm ho`n lại việc tính chi phí để tuân thủ nguyên tắc phù hợp. Số dư của tài khoản 142 trong trường hợp này không có y nghĩa như một tài sản có thể tham gia thanh toán công nợ.
Như vậy, nếu tính toán giá trị tài sản thiếu, mất chờ xử lý hoặc các khoản chi phí trả trước vào các công thức tính có liên quan thì kết quả là các hệ số sẽ được thổi phồng lên, người sử dụng thông tin sẽ đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt hơn thực trạng của doanh nghiệp, điều này trực tiếp vi phạm nguyên tắc thận trọng của kế toán, đồng thời ảnh hưởng tới xét đoán và ra quyết định của người sử dụng thông tin phân tích.
Tuy nhiên, khi tính toán các chỉ tiêu khác thì việc loại trừ các chỉ tiêu trên chưa hẳn đ` cho kết quả chính xác.
+ Việc tính toán các chỉ tiêu, hệ số, tỉ lệ phân tích tài chính liên quan đến khả năng thanh toán cũng chưa thực sự chính xác và chưa phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế cũng như bản chất các giao dịch mua bán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Cụ thể đối với các chỉ tiêu liên quan đến việc xác định: Số vòng quay các khoản phải thu, Độ dài vòng quay khoản phải thu... việc sử dụng Doanh thu bán hàng thuần trong các công thức tính toán là không hợp lý. Đây là cách làm dập khuôn theo kinh nghiệm của một số nước phát triển nhưng không phù hợp ở Việt Nam. Tại các nước phát triển, việc thanh toán bằng chuyển khoản qua ngân hàng là bắt buộc đối với mọi cá nhân và doanh nghiệp cho nên, khi bán hàng, thời điểm bán hàng và thời điểm mua hàng luôn có khoảng thời gian chênh lệch do phải phụ thuộc vào thời gian giao dịch của ngân hàng, hơn nữa, tín dụng thương mại ở các nước này là rất phổ biến. Vậy nên,
đối với các nước này, doanh thu bán hàng thuần và doanh thu bán chịu có thể coi là
đồng nhất, do doanh thu thu tiền mặt trực tiếp là không đáng kể, không ảnh hưởng tới kết quả tính toán chỉ tiêu. Theo đó, việc tính toán chỉ tiêu Phải thu khách hàng và Doanh thu bán hàng thuần, hay Doanh thu bán chịu trong các công thức là đồng nhất và hợp lý. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, một lượng lớn các giao dịch mua bán được thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt trao tay. Trong tổng doanh thu bán hàng thuần của một doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh thu thu tiền ngay chiếm tỉ trọng đáng kể. Do vậy, nếu so sánh chỉ tiêu Doanh thu bán hàng thuần và khoản Phải thu khách hàng trong các công thức tính là không tương xứng. Hơn nữa, theo chính sách thuế GTGT của Việt Nam, tiền thuế GTGT cũng là một phần của công nợ phải thu khách hàng, nhưng lại không tính vào doanh thu (trong trường hợp doanh nghiệp được khấu trừ thuế GTGT). Như vậy, công thức tính sử dụng Doanh thu bán hàng thuần và Phải thu khách hàng áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam là không hợp lý.
- Các chỉ tiêu liên quan đến sức sinh lời, tính toán suất hao phí của tài sản cố
định nói riêng hoặc các loại tài sản ngắn hạn khác nói riêng được tính toán chưa hoàn toàn hợp lý, cụ thể: thông thường các chỉ tiêu về sức sinh lời đối với tài sản thường tính bằng một phân số mà tử số là các chỉ tiêu liên quan đến Kết quả đầu ra của quá trình
sản xuất như: Doanh thu, Doanh thu thuần, Lợi nhuận gộp, Lợi nhuận thuần, Lợi nhuận trước thuế, Lợi nhuận sau thuế... còn mẫu số là các chỉ tiêu Tài sản cố định, Tài sản ngắn hạn, Tài sản dài hạn (tính bằng số dư cuối kì hoặc tính bằng số bình quân đầu kì và cuối kì).
Theo tác giả, việc tính toán này là không hợp lý, do tử số là các chỉ tiêu mang tính thời kì, trong khi đó mẫu số lại là chỉ tiêu hoàn toàn mang tính thời điểm.
Ví dụ nếu lấy Doanh thu thuần/Tài sản cố định để kết luận một đơn vị giá trị (nguyên giá, giá trị còn lại) tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đơn vị giá trị doanh thu thuần là không hợp lý. Do mẫu số của công thức trên là bình quân giá trị tài sản cố định
đầu kì và cuối kì trên bảng cân đối kế toán, tức là giá trị còn lại của tài sản cố định. Để tạo ra lượng doanh thu thuần trong kì, doanh nghiệp chỉ hao phí phần giá trị hao mòn của tài sản cố định, như vậy, có thể thấy tính toán trên là không tuân thủ nguyên tắc phù hợp.
Một ví dụ khác, nếu tính chỉ tiêu Sức sinh lời của Tài sản ngắn hạn bằng cách lấy tỉ số Lợi nhuận thuần trước thuế/Tài sản ngắn hạn để đưa ra nhận xét một đơn vị giá trị tài sản ngắn hạn tạo ra bao nhiêu đơn vị giá trị của Lợi nhuận thuần trước thuế, thì chúng ta cũng có thể gặp phải những vướng mắc tương tự. Chỉ đơn cử trong tài sản ngắn hạn bao gồm có phần giá trị hàng tồn kho, trong khi, tạo ra lợi nhuận trong kì thì lại thực sự liên quan đến phần giá trị hàng tồn kho đ` sử dụng, đ` bán.
Trên đây chỉ là một số minh chứng về những hạn chế, vướng mắc đối với một số chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính đang được áp dụng khá rộng r`i ở Việt Nam, cả trong nghiên cứu, đào tạo cũng như ứng dụng thực tiễn.
2.5.3.1.5. Hạn chế trong việc xem xét các yếu tố môi trường kinh doanh khi phân tích báo cáo cũng như trong dự báo tương lai tài chính doanh nghiệp
Trong hầu hết các tài liệu giảng dạy, nghiên cứu, sách tham khảo (sự thể hiện chủ yếu của hệ thống lý luận) về phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ
đều không đề cập đến những ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến quá trình phân tích báo cáo tài chính. Những ảnh hưởng của sự thay đổi chính sách kinh tế, môi trường kinh doanh, ảnh hưởng của lạm phát... tới việc phân tích báo cáo tài chính chưa được quan tâm nghiên cứu. Kĩ thuật tính toán, điều chỉnh các chỉ tiêu phân tích khi có tác
động của các yếu tố môi trường, đặc biệt là lạm phát, không được hướng dẫn, định
lượng cụ thể. Lí luận phân tích báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng chủ yếu dừng lại ở phân tích trong một môi trường kinh tế không thay đổi. Điều này sẽ làm cho hệ thống cơ sở lý luận về phân tích có thể quá xa rời so với thực tế kinh doanh.
Bên cạnh đó, các mô hình dự báo cũng chưa được quan tâm thích đáng. Các đối tượng sử dụng thông chủ yếu chỉ nghiên cứu tình hình tài chính hiện tại của đối tượng
được phân tích.
2.5.3.1.6. Sự phát triển không đồng đều giữa lý luận về các nội dung phân tích báo cáo tài chính và nghiên cứu ứng dụng
Như đ` trình bày trong phần cơ sở lý luận về phân tích báo cáo tài chính, các nội dung phân tích báo cáo có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng thông tin của chủ thể tiến hành phân tích. Tuy nhiên, hiện nay, ở Việt Nam, hệ thống cơ sở lý luận về phân tích báo cáo tài chính chủ yếu tập trung vào phân tích tình hình tài chính, phân tích hiệu quả kinh doanh, phân tích tài trợ vốn và phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nội dung phân tích rủi ro tài chính, rủi ro kinh doanh, phân tích nguy cơ phá sản doanh nghiệp, phân tích định giá doanh nghiệp... là những nội dung rất quan trọng nhưng lại chưa được quan tâm thích đáng.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh tế ngày càng hướng tới một nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính, thị trường vốn ngày càng phát triển, hoạt động đầu tư ngày càng sôi động, các hoạt động mua, bán doanh nghiệp, hợp nhất kinh doanh diễn ra ngày càng nhiều. Để có thể ra quyết định đầu tư vào một doanh nghiệp nào đó, nhà đầu tư không chỉ quan tâm tới yếu tố lợi ích của khoản đầu tư đem lại mà còn phải quan tâm tới những rủi ro trong kinh doanh có thể gặp phải trong quá trình đầu tư vào doanh nghiệp. Vấn đề hiệu quả đầu tư, bảo toàn và phát triển vốn đầu tư được đặt lên hàng đầu cho nên việc so sánh lợi ích, rủi ro trong quá trình đầu tư là cần thiết. Còn trong trường hợp mua, bán, chuyển nhượng, hợp nhất kinh doanh giữa các doanh nghiệp, người mua cũng cần định giá được doanh nghiệp mình sẽ mua, để không phải mua với giá quá cao,
đồng thời, bản thân doanh nghiệp cũng cần xác định được giá trị của mình để không bán với giá quá thấp, gây thiệt hại về lợi ích kinh tế.
Chế độ tài chính, kế toán và các chính sách pháp luật có liên quan đ` có sự quan tâm thích đáng tới những vấn đề này, các chuẩn mực kế toán Việt Nam liên quan đến hợp nhất kinh doanh (VAS11 Hợp nhất kinh doanh), các khoản đầu tư vào các đơn vị khác (VAS07 Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết, VAS08 Thông tin tài chính về các khoản vốn góp liên doanh, VAS25 Báo cáo tài chính hợp nhất và các khoản đầu tư vào công ty con) đ` được ban hành và hướng dẫn thực hiện khá đầy đủ, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế về kế toán của các hoạt động kinh tế này. Tuy nhiên, hệ thống lý luận về phân tích báo cáo tài chính lại chưa bắt kịp với những chuyển biến này của đối tượng phân tích.
2.5.3.1.7. Hạn chế của bản thân những công cụ và kĩ thuật kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính
Ngoài những hạn chế chủ yếu về mặt lý luận kể trên, ngay trong bản thân các công cụ và kĩ thuật phân tích cũng bị những giới hạn nhất định do ảnh hưởng của bản chất của công tác kế toán hoặc các yếu tố khác, như:
- Hạn chế về mặt thời gian trong công cụ phân tích xu hướng (định gốc hoặc so sánh liên hoàn): số liệu sử dụng để phân tích trên các báo cáo tài chính chỉ phản ánh quá khứ do số liệu kế toán về tài sản, nguồn vốn phải tuân thủ nguyên tắc giá phí lịch sử, tuy nhiên, việc ra quyết định lại hướng đến tương lai. Mặc dù thông tin về quá khứ có thể dùng để định hướng cho tương lai, nhưng không có nghĩa là hiệu quả hoặc rủi ro hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai đ` được bảo đảm. Nhiều người sử dụng thông tin sẽ lầm lẫn các thông tin về dự báo tương lai trong phân tích báo cáo tài chính là những sự đảm bảo cho tương lai.
- Sự thay đổi của môi trường kinh tế: khi phân tích, so sánh các chỉ số, tỉ lệ... theo chiều ngang giữa các kì kế toán khác nhau, các kĩ thuật phân tích hiện tại thường bỏ qua những thay đổi trong môi trường kinh doanh. Những thay đổi này là cho cơ sở so sánh trở nên không đồng nhất, làm cho các đánh giá có thể thay đổi. Ví dụ, một con số về tỉ lệ Nợ phải trả/Nguồn vốn của doanh nghiệp có thể coi là chấp nhận được trong
điều kiện nền kinh tế ổn định nhưng lại có thể thể hiện nguy cơ phá sản và mất khả năng thanh toán khi nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái. Tương tự như vậy, sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng, l`i suất thị trường, tính cạnh tranh... cũng có ảnh hưởng lớn tới quá trình sử dụng thông tin phân tích để ra quyết định đầu tư hoặc cho vay.