giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia.
Theo Barro, R.J. (1990) thì thị trường chứng khoán được định nghĩa là một nơi chứng khoán được mua bán tuân theo những qui tắc nhất định, đi kèm với nó là định nghĩa về các loại chứng khoán là cổ phiếu và trái phiếu.[20]
Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. Tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán là định chế tài chính trực tiếp: Cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. Ngược với cách tài trợ gián tiếp được thực hiện thông qua các trung gian tài chính, những người có vốn có khi có đủ điều kiện về môi trường tài chính, pháp lý... sẽ trực tiếp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh không cần qua các trung gian tài chính mà chuyển vốn thông qua thị trường chứng khoán, một thị trường dẫn vốn trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn theo nguyên tắc đầu tư.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường và gắn liền với tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, với mục đích là huy động các nguồn vốn trung, dài hạn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển nền kinh tế. Ngày 20/07/2000, Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động ở Việt Nam với 2 sàn giao dịch chứng khoán tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Theo Luật Chứng Khoán của Việt Nam, số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019, thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán. Trên Thị trường chứng khoán Việt Nam, các chủ thể chính tham gia thị trường thường gồm: Ủy ban Chứng khoán Quốc gia; Sở giao dịch chứng khoán; các tổ chức phát hành; tổ chức niêm yết chứng khoán; các nhà đầu tư chứng khoán; các định chế tài chính trung gian.[10]
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại các công ty dược phẩm niêm yết ở Việt Nam - 2
- Nghiên Cứu Về Kế Toán Trong Các Doanh Nghiệp Dược Phẩm Niêm Yết Ở Việt Nam
- Tổng Quan Về Thị Trường Chứng Khoán, Doanh Nghiệp Niêm Yết Và Vai Trò Của Kế Toán Doanh Thu, Chi Phí Và Xác Định Kết Quả Kinh Doanh
- Hoàn thiện kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại các công ty dược phẩm niêm yết ở Việt Nam - 6
- Kế Toán Doanh Thu, Chi Phí Và Xác Định Kết Quả Kinh Doanh Trong Doanh Nghiệp Niêm Yết
- Hoàn thiện kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại các công ty dược phẩm niêm yết ở Việt Nam - 8
Xem toàn bộ 238 trang tài liệu này.
Các tổ chức phát hành chứng khoán tiến hành chào bán chứng khoán lần đầu qua thị trường sơ cấp nhằm tăng vốn phục vụ cho việc tài trợ các dự án, mục tiêu hoạt động của tổ chức phát hành. Tổ chức phát hành chứng khoán có thể gồm: Chính phủ phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư; chính quyền địa phương phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án, nhu cầu chi tiêu của chính quyền địa phương; các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty; các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp; các quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ phát hành chứng chỉ đầu tư.
Dù ra đời chưa lâu nhưng Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng tỏ được, đây là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng ngày càng thu hút được sự quan tâm, đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, tích cực thu hút các nguồn ngoại tệ. Lượng vốn huy động từ Thị trường chứng khoán qua các phương thức phát hành chứng khoán có xu hướng không ngừng tăng. Ngày càng thấy Thị trường chứng khoán Việt Nam không thể thiếu trong sự phát triển của nền kinh tế, giúp Chính phủ và doanh nghiệp huy động vốn, mở rộng quy mô phát triển sản xuất.
1.1.2. Doanh nghiệp niêm yết
Doanh nghiệp niêm yết là các công ty cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Theo điều 4 Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019, niêm yết chứng khoán là việc đưa chứng khoán có đủ điều kiện niêm yết vào giao dịch trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán niêm yết. [10]
Công ty cổ phần được quy định tại điều 111 Luật doanh nghiệp số 59/2020/QH14 ngày 17/6/2020, là doanh nghiệp với một số quy định cơ bản: Vốn
điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ một số trường hợp; Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Công ty cổ phần có thể phát hành cổ phần, trái phiếu và các loại chứng khoán khác của công ty tùy theo quy định của pháp luật hiện hành và Điều lệ công ty. [11]
Để trở thành doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán, công ty cổ phần phải đáp ứng các tiêu chuẩn định tính và định lượng theo quy định của từng sở giao dịch. Các tiêu chuẩn định tính như: Triển vọng phát triển, tính khả thi của phương án sử dụng vốn từ đợt phát hành, kết quả kiểm toán BCTC của doanh nghiệp, việc thực hiện công bố thông tin. Các tiêu chuẩn định lượng có thể gồm: Thời gian hoạt động, quy mô vốn, hiệu quả hoạt động...
Chất lượng thông tin công bố trên báo cáo BCTC của các doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả ra quyết định của người sử dụng thông tin. Đối với các doanh nghiệp niêm yết, thông tin kế toán tài chính trên BCTC càng đòi hỏi cao về chất lượng và chịu nhiều tác ảnh hưởng từ đặc điểm của doanh nghiệp niêm yết do: (1) Thông tin tài chính về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết được quan tâm rộng rãi; (2) doanh nghiệp niêm yết phải tuân thủ nhiều quy định và điều kiện hơn với các loại hình doanh nghiệp khác; (3) doanh nghiệp niêm yết là dễ dàng huy động vốn khi có nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và (4) Sự độc lập tương đối giữa sở hữu và quản trị doanh nghiệp có thể dẫn đến nguy cơ phản ánh sai lệch thông tin tài chính của doanh nghiệp niêm yết.
1.1.3. Vai trò kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp niêm yết
Kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh là nội dung quan
trọng trong hệ thống kế toán doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp niêm yết nói riêng. Thông qua các thông tin kinh tế về doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, các đối tượng sử dụng thông tin sẽ đánh giá được trình độ tổ chức kinh doanh, hiệu quả kinh doanh, khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp. Thường xuyên tổ chức đánh giá tính hợp pháp, hợp lý, sự biến động của doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh đã ghi nhận ở doanh nghiệp sẽ góp phần tăng cường quản lý tài sản, tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh.
Hệ thống kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp là một tổng thể bao gồm hai hệ thống con là hệ thống Kế toán tài chính và hệ thống Kế toán quản trị có mối quan hệ tương tác, liên kết với nhau để cùng thực hiện một mục tiêu chung là cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng. Hệ thống Kế toán tài chính và Kế toán quản trị đều quan tâm đến các dữ liệu thông tin về nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nguồn hình thành thành tài sản, chi phí, doanh thu, kết quả kinh doanh, lưu chuyển tiền từ đó thu thập, phản ánh, xử lý, tổng hợp thông tin trên các báo cáo kế toán đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng. Yếu tố cấu thành hai hệ thống đều bao gồm chứng từ, tài khoản và sổ, báo cáo kế toán có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về các thông tin kế toán phản ánh.
Tuy nhiên, mỗi một hệ thống đều có những điểm khác biệt do mục đích cung cấp thông tin và hướng đến các đối tượng sử dụng khác nhau. Thông tin do hệ thống Kế toán tài chính thường phản ánh quá khứ, tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực, chế độ kế toán theo quy định chú trọng đến tính chính xác, chuẩn mực của thông tin và đặt trọng tâm cung cấp cho cá nhân, tổ chức bên ngoài doanh nghiệp có lợi ích liên quan.
Vai trò kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thể hiện ở một số điểm sau:
- Kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh cung cấp các thông tin cơ bản để lập các BCTC đặc biệt là báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh tổng quát và toàn diện về tình hình kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
- Các thông tin doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh do kế toán cung cấp là căn cứ quan trọng để nhà quản trị trong doanh nghiệp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đánh giá, kiểm soát chặt chẽ được tình hình thực hiện kế hoạch chi phí, lợi nhuận, việc huy động các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh, thu thập, phân tích các thông tin phục vụ cho việc lập dự toán sản xuất kinh doanh, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, đánh giá những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục, phân tích, nghiên cứu, phát hiện khả năng tiềm tàng, dự báo xu hướng phát triển của doanh nghiệp, từ đó đưa ra kế hoạch sản xuất kinh doanh.
- Kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh cung cấp những thông tin chủ yếu về tình hình thực hiện chi phí, doanh thu, kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Căn cứ vào các thông tin thực hiện, các nhà đầu tư, tổ chức tài chính tín dụng, nhà cung cấp, khách hàng…đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh và ra quyết định đầu tư phù hợp.
- Với các doanh nghiệp niêm yết, đối tượng sử dụng thông tin doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bên cạnh các nhà quản trị, các cổ đông, nhà đầu tư, quỹ đầu tư còn rất nhiều đối tượng khác quan tâm phục vụ mục đích quản lý nhà nước như các cơ quan quản lý giám sát, nhà nghiên cứu chính sách, thống kê…. Vai trò to lớn của BCTC là cung cấp những thông tin tài chính ra bên ngoài một cách kịp thời và hợp lý, một BCTC có chất lượng cao sẽ làm gia tăng đầu tư hiệu quả, đồng thời góp phần vào nâng cao chất lượng quản lý, xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi.
1.2. Nhận diện, phân loại doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh
1.2.1. Doanh thu và phân loại doanh thu
1.2.1.1. Nhận diện doanh thu
Doanh thu là kết quả của khâu cuối cùng trong một chu trình luân chuyển vốn, trực tiếp quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong kinh
tế học, doanh thu của doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ số tiền đã hoặc sẽ thu được do tiêu thụ sản phẩm, cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính và các hoạt động khác.[3] Có nhiều quan điểm và định nghĩa về doanh thu trong kế toán nhau sau:
Theo quan điểm trước đây của IASC: "Thu nhập là các yếu tố làm tảng lợi ích kinh tế trong niên độ kế toán dưới hình thức tăng tài sản hay giảm công nợ kết quá là làm tăng vốn tự có mà không phải do việc đóng góp vốn của các bên chủ sở hữu".[6]
Trong khái niệm này thu nhập bao gồm cả doanh thu bán hàng và các khoản thu nhập từ các hoạt động khác. IASC nhấn mạnh dấu dấu hiệu xác định doanh thu phải thỏa mãn 2 điều kiện: Tăng lợi ích kinh tế của doanh nghiệp bằng cách tăng vốn tự có và không phải do việc góp vốn của các chủ sở hữu. Như vậy, doanh nghiệp muốn tăng lợi ích kinh tế, tăng khả năng độc lập về tài chính thì một trong những biện pháp cơ bản là tăng doanh thu.
Viện Kế Toán Công Chứng Hoa Kỳ (AICPA) định nghĩa: “Doanh thu là tổng số tăng tài sản hay là sự giảm gộp các khoản nợ được công nhận và được định lượng theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp thuận, là kết quả của các loại hoạt động có lợi nhuận của doanh nghiệp và có thể làm thay đổi vốn chủ sở hữu".[25]
Về cơ bản phạm vi và bản chất kinh tế của doanh thu của AICPA giống với quan điểm của IASC nhưng còn chỉ ra: Nguồn gốc của sự thay đổi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp chính là từ kết quả của các loại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi doanh thu có khả năng sản sinh ra lợi nhuận.
Trong Kế toán Pháp: “Lợi tức là khoản tiền xí nghiệp đã thu được hay sẽ thu được do bán hàng hóa, sản phẩm, cung cấp các công trình, lao vụ, các món lãi về cho vay nợ hoặc trả nợ trước kỳ hạn". Lợi tức ở đây bao gồm cả doanh thu bán hàng, cung cấp lao vụ, dịch vụ và các khoản lãi từ hoạt động tài chính.[15]
Trong tuyên bố về các khái niệm cơ bản năm 1980 và 1985, Hội đồng FASB đưa ra định nghĩa: “Doanh thu là dòng vào hay sự gia tăng của tài sản hoặc giảm nợ phải trả (hoặc kết hợp cả hai) phát sinh trong kỳ từ phân phối hoặc sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ hay các hoạt động khác cấu thành hoạt động chủ yếu
của doanh nghiệp”.[21][22]
Hội đồng IASB, trong khuôn mẫu lý thuyết kế toán năm 1989 và sửa đổi năm 2010, đưa ra định nghĩa chung về thu nhập: “Thu nhập là sự tăng lên của lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức dòng vào (hay sự tăng lên) của tài sản hoặc giảm đi của nợ phải trả dẫn đến sự tăng lên của vốn chủ sở hữu”. Theo IASB, thu nhập bao gồm doanh thu và thu nhập khác.[23]
Theo đó, có thể nhận thấy điểm chung cơ bản trong khái niệm về doanh thu của hai hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế lớn nhất thế giới trên một số đặc điểm về: (1) Kết quả của hoạt động kinh doanh là cơ sở tạo ra doanh thu, bao gồm hoạt động thường xuyên và không thường xuyên; (2) Bản chất của doanh thu được xem xét từ các yếu tố cơ bản của bảng cân đối kế toán là tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
Cụ thể trong các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận của Hoa Kỳ US GAAP - ASC 605 được ban hành bởi FASB thì “Doanh thu là một dòng tiền vào doanh nghiệp, các khoản phải thu khách hàng hay giá trị hàng đổi được từ phía các khách hàng để đổi lấy việc được sử dụng, được cung cấp các dịch vụ hay sản phẩm từ phía doanh nghiệp”.[24]
Trước năm 2018, khi IFRS 15 có hiệu lực, FASB và IASB đều đưa ra các định nghĩa về doanh thu, thu nhập một cách đầy đủ và có hệ thống, làm cơ sở cho việc thiết lập các quy định cụ thể cho việc ghi nhận doanh thu, thu nhập khác. Cả hai đều lựa chọn cách tiếp cận theo giao dịch làm cơ sở cho việc xem xét bản chất của doanh thu. Doanh thu phát sinh trên cơ sở các hoạt động cơ bản, thường xuyên của doanh nghiệp. Bản chất của doanh thu được tiếp cận gắn với các yếu tố thuộc Bảng cân đối kế toán là tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Qua đó, Bảng cân đối kế toán được xác định là BCTC chủ yếu và trên cơ sở đó để xác định các yếu tố của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Quan điểm của IASB khi xem xét đến điều kiện ghi nhận thu nhập là tính chắc chắn của việc thu được lợi ích kinh tế và việc xác định lợi ích đó một cách đáng tin cậy. Đồng thời việc ghi nhận từng khoản thu
nhập được đề cập trong IAS 18, 11 và nguyên tắc ghi nhận doanh thu được cụ thể hóa theo từng lĩnh vực.
IFRS 15, cùng với ASC Topic 606 được đưa vào hệ thống hóa trong các chuẩn mực kế toán cách tiếp cận doanh thu từ hợp đồng với khách hàng, hoàn thiện nỗ lực chung giữa IASB và FASB về hoàn thiện BCTC thông qua việc thiết lập một chuẩn mực chung về ghi nhận doanh thu cho cả IFRS và US GAAP.
Theo IFRS 15, ghi nhận doanh thu cho các hợp đồng với khách hàng thay thế tất cả các chuẩn mực hay các diễn giải chuẩn mực được IASB ban hành trước đó có hiệu lực từ năm 2018. Mô hình ghi nhận doanh thu mà IFRS 15 giới thiệu là mô hình ghi nhận doanh thu duy nhất cho tất cả các hợp đồng với khách hàng gồm 5 bước. Theo đó, doanh nghiệp ghi nhận doanh thu khi đã chuyển giao sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ cho khách hàng, nghĩa là khách hàng giữ quyền kiểm soát, khả năng sử dụng trực tiếp và nắm giữ thực chất toàn bộ lợi ích còn lại. Quyền kiểm soát trong một khoảng thời gian hay một thời điểm quyết định khi nào doanh nghiệp được ghi nhận doanh thu.[18]
Qua các quan điểm và khái niệm về doanh thu của nhiều tổ chức quốc tế và hệ thống kế toán nước ngoài, cho thấy dù có sự khác nhau ở từ ngữ nhưng đều diễn đạt thống nhất bản chất của doanh thu trong nền kinh tế hiện đại ngày nay với một số đặc điểm chính:
(1) Doanh thu là lợi ích kinh tế mang lại cho doanh nghiệp từ kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh;
(2) Góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu nhưng không bao gồm phần vốn góp của các chủ sở hữu hay cổ đông.
(3) Doanh thu được xem xét ghi nhận khi có sự chuyển giao quyền kiểm soát gắn với việc thực hiện các nghĩa vụ, thỏa thuận trong hợp đồng.
1.2.1.2. Phân loại doanh thu
Tùy theo nhu cầu sử dụng thông tin kế toán về doanh thu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để phân