CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO | 3 | 0 | 1 | 2 | 0 | |
5 | VẬN TẢI, KHO BÃI | 4 | 0 | 3 | 0 | 1 |
6 | BÁN BUÔN, BÁN LẺ | 7 | 5 | 0 | 2 | 0 |
7 | DỊCH VỤ LƯU TRÚ VÀ ĂN UỐNG | 1 | 1 | 0 | 0 | 0 |
8 | VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ GIẢI TRÍ | 1 | 1 | 0 | 0 | 0 |
9 | KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 |
2. DN lựa chọn ngẫu nhiên theo PP xác suất: | 8 | |||||
II/ DN do Chi cục Thuế quản lý | 42 | |||||
Tổng cộng | 88 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Hình Thức Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Về Thuế
- Phân Tích Thực Trạng Hoạt Động Thanh Tra Thuế Tại Cục Thuế Tỉnh An Giang
- Thực Trạng Lập Kế Hoạch Thanh Tra Tại Cục Thuế Tỉnh An Giang
- Kết Quả Khảo Sát Về Tiêu Chí Thời Gian Thanh Tra
- Số Doanh Nghiệp Vi Phạm Và Các Loại Thuế Khác (Thu Nhập Cá Nhân, Thuế Tài Nguyên, Phí Bảo Vệ Môi Trường) Truy Thu
- Một Số Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Hoạt Động Thanh Tra Thuế Đối Với Doanh Nghiệp Trong Cơ Chế Tự Khai, Tự Nộp Tại Cục Thuế Tỉnh An Giang
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Nguồn: Phòng Thanh tra Cục Thuế tỉnh An Giang
Tuy nhiên đến năm 2012, theo hướng dẫn tại công văn số 3710/TCT-TTr ngày 18/10/2011 của Tổng cục Thuế, Tổng cục Thuế yêu cầu các Cục Thuế phân tích, đánh giá rủi ro trên cơ sở số liệu kê khai, quyết toán thuế, báo cáo tài chính của doanh nghiệp (bao gồm doanh nghiệp do Cục và Chi cục Thuế quản lý) từ năm 2009 đến năm 2010, dựa trên 6 tiêu chí:
+ Tiêu chí loại hình kinh tế: DNNN, Công ty Cổ phần, Công ty TNHH, Công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Tiêu chí biến động tỷ lệ thuế TNDN/doanh thu năm 2010 so với năm 2009.
+ Tiêu chí tỷ lệ lợi nhuận sau thuế / vốn chủ sở hữu.
+ Tiêu chí tỷ lệ thuế GTGT và thuế TNDN đã nộp / số phải nộp.
+ Tiêu chí số lần chậm nộp hồ sơ khai thuế.
+ Tiêu chí số lần bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế.
Qua phân tích, đánh giá rủi ro, Cục Thuế tỉnh An Giang đã đưa vào kế hoạch thanh tra 71 doanh nghiệp có rủi ro cao và vừa.
Kết quả công tác lập kế hoạch thanh tra năm 2012:
Bảng 2.7: Kết quả công tác lập kế hoạch thanh tra năm 2012
NGÀNH NGHỀ DOANH NGHIỆP | TỔNG SỐ CUỘC THANH TRA | |||||
Tổng số | Lớn | Vừa | Nhỏ | Rất nhỏ | ||
Năm 2012 | ||||||
Các DN lựa chọn qua phân tích, đánh giá rủi ro: | 71 | 40 | 31 | 0 | 0 | |
1 | SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN | 22 | 14 | 8 | 0 | 0 |
2 | XÂY DỰNG | 7 | 4 | 3 | 0 | 0 |
3 | CÔNG NGHIỆP KHAI KHOÁNG | 3 | 3 | 0 | 0 | 0 |
4 | CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO | 4 | 0 | 4 | 0 | 0 |
5 | VẬN TẢI, KHO BÃI | 7 | 4 | 3 | 0 | 0 |
6 | BÁN BUÔN, BÁN LẺ | 18 | 6 | 12 | 0 | 0 |
7 | DỊCH VỤ LƯU TRÚ VÀ ĂN UỐNG | 1 | 1 | 0 | 0 | 0 |
8 | VÀNG BẠC ĐÁ QUÝ | 1 | 1 | 0 | 0 | 0 |
9 | KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN | 1 | 1 | 0 | 0 | 0 |
10 | TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG | 1 | 1 | 0 | 0 | 0 |
11 | KINH DOANH KHÁC | 6 | 5 | 1 | 0 | 0 |
Nguồn: Phòng Thanh tra Cục Thuế tỉnh An Giang Đến năm 2013, Theo hướng dẫn tại công văn số 3576/TCT-TTr ngày 11/10/2012 của Tổng cục Thuế, Tổng cục Thuế yêu cầu các Cục Thuế phân tích, đánh giá rủi ro trên cơ sở số liệu kê khai, quyết toán thuế, báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 03 năm, từ năm 2009 đến năm 2011. Đồng thời hướng dẫn các Cục Thuế xây dựng kế hoạch thanh tra chiếm tỷ lệ 1,6% / tổng số doanh nghiệp đang quản lý thuế. Ngày 27/12/2012 Tổng cục Thuế ban hành Quyết định số 2180/QĐ-TCT về việc giao kế hoạch thanh tra năm 2013 cho Cục Thuế tỉnh An
Giang thực hiện là 79 doanh nghiệp.
Việc phân tích, đánh giá lập kế hoạch thanh tra thực hiện theo ứng dụng phân tích thông tin rủi ro của Người nộp thuế (TPR), bộ tiêu chí đánh giá đánh giá rủi ro được xây dựng gồm 21 tiêu chí tĩnh (tiêu chí do T ổng cục Thuế xây dựng) và tùy tình hình thực tế, các địa phương có thể đưa vào một số tiêu chí động, chia thành 6
nhóm:
chí) chí)
+ Nhóm I: Đánh giá về tuân thủ khai thuế, tính thuế (bao gồm 1 tiêu chí)
+ Nhóm II: Phân loại doanh nghiệp theo loại hình kinh tế (bao gồm 1 tiêu
+ Nhóm III: Đánh giá sự biến động về kê khai giữa các năm (bao gồm 2 tiêu
+ Nhóm IV: Đánh giá về tình hình tài chính (bao gồm 14 tiêu chí)
+ Nhóm V: Lịch sử thanh tra của NNT (bao gồm 2 tiêu chí)
+ Nhóm VI: Các tiêu chí về nhân thân doanh nghiệp (bao gồm 1 tiêu chí) Việc sử dụng ứng dụng phân tích thông tin rủi ro của Người nộp thuế (TPR)
lập kế hoạch thanh tra thuế là bước tiến quan trọng trong công tác lập kế hoạch thanh tra thuế, giúp cho việc phân tích đánh giá kịp thời, chính xác, đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí, đánh giá dược hầu hết mọi hoạt động của doanh nghiệp nên khả năng xác định rủi ro chính xác, nhanh chóng hơn.
Đối với các doanh nghiệp do Chi cục Thuế quản lý, việc phân tích, đánh giá lập kế hoạch thanh tra theo 06 tiêu chí đánh giá như áp dụng mô hình quản lý rủi ro cấp Cục Thuế năm 2012.
Qua phân tích, đánh giá rủi ro, Cục Thuế tỉnh An Giang đã đưa vào kế hoạch thanh tra 79 doanh nghiệp có rủi ro cao và vừa.
Bảng 2.8: Kết quả công tác lập kế hoạch thanh tra năm 2013
SỐ LƯỢNG | |
I. Danh sách doanh nghiệp lựa chọn trên cơ sở áp dụng phần mềm ứng dụng TPR | 38 |
II. Danh sách doanh nghiệp lựa chọn trên cơ sở phân tích rủi ro theo bộ tiêu chí được xây dựng từ 6 tiêu chí tĩnh của TCT | 41 |
TỔNG CỘNG | 79 |
Nguồn: Phòng Thanh tra Cục Thuế tỉnh An Giang
2.3.1.3. Thời gian, chất lượng công tác lập kế hoạch thanh tra
Căn cứ định hướng chương trình thanh tra, hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Tài chính và yêu cầu công tác quản lý thuế, Tổng cục Thuế hướng dẫn lập kế hoạch thanh tra ngành thuế trước ngày 15 tháng 10 hàng năm; Cục Thuế lập kế hoạch
thanh tra, gửi đến Tổng cục Thuế chậm nhất ngày 25 tháng 11 hàng năm; Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế phê duyệt kế hoạch thanh tra của Cục Thuế chậm nhất ngày 15 tháng 12 hàng năm.
Việc lập kế hoạch thanh tra hàng năm thường được thực hiện từ giữa tháng 10 đến khi Tổng cục Thuế phê duyệt kế hoạch thanh tra giữa tháng 12 hàng năm. Vì vậy, việc lập kế hoạch thanh tra không phân công cụ thể cán bộ chuyên trách lập kế hoạch thanh tra mà do một số cán bộ kiêm nhiệm thực hiện. Phân tích, đánh giá đúng rủi ro về thuế của doanh nghiệp sẽ mang lại hiệu quả cho công tác thanh tra, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thuế. Đánh giá được tầm quan trọng của công tác lập kế hoạch thanh tra, tại phòng Thanh tra Thuế - Cục Thuế tỉnh An Giang hàng năm công tác lập kế hoạch thanh tra được trưởng phòng chỉ đạo trực tiếp, một phó trưởng phòng và một cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong công tác thanh tra, sử dụng thông thạo những ứng dụng tin học trực tiếp thực hiện. Bên cạnh đó, trong quá trình chuẩn bị dữ liệu lập kế hoạch thanh tra, phòng Thanh tra Thuế còn đề xuất lãnh đạo trưng dụng cán bộ của bộ phận tin học giúp khai thác, xử lý dữ liệu hoặc làm đầu mối liên hệ với Tổng cục Thuế xử lý kịp thời những vướng mắc trong quá trình vận hành chương trình phân tích thông tin rủi ro của người nộp thuế (TPR) lập kế hoạch thanh tra.
Nếu đánh giá công tác lập kế hoạch thanh tra đơn thuần là công tác phân tích các chỉ số tài chính, đánh giá sự biến động bất thường về doanh số, thuế phát sinh, thuế đã nộp, hoàn thuế, miễn giảm thuế mà không vận dụng những kiến thức thực tiễn, những kinh nghiệm trong công tác thanh tra tại doanh nghiệp, nắm bắt những thông tin về diễn biến thị trường thì hiệu quả công tác lập kế hoạch thanh tra sẽ bị hạn chế, sẽ đưa vào kế hoạch thanh tra những doanh nghiệp ít rủi ro, đồng thời bỏ sót những doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế. Việc sử dụng cán bộ có kinh nghiệm, có kiến thức thực tiễn là rất quan trọng, tuy nhiên mỗi cán bộ có kinh nghiệm, thế mạnh riêng ở một số lĩnh vực, ngành nghề nhất định, do đó việc lập kế hoạch thanh tra không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả tốt nhất.
Đối với những doanh nghiệp do Chi cục Thuế quản lý, nguồn thông tin, dữ liệu do cán bộ các Chi cục Thuế tổng hợp, báo cáo về thường rất hạn chế, thiếu chính xác; trình độ nghiệp vụ, nhận thức, đánh giá rủi ro của các cán bộ Chi cục
Thuế không đồng đều. Do đó nhiều trường hợp đề xuất đưa vào kế hoạch thanh tra không đảm bảo thông tin xác định rủi ro, nhiều trường hợp qua phân tích chuyên sâu không xác định được rủi ro phải điều chỉnh giảm kế hoạch thanh tra thuế.
Trong những năm 2010, 2011 Tổng cục Thuế ban hành những công văn hướng dẫn lập kế hoạch thanh tra thường trễ, cuối tháng 11 thậm chí sang đầu tháng 12, do đó việc lập kế hoạch thanh tra của các Cục Thuế, phê duyệt kế hoạch thanh tra của Tổng cục Thuế không đảm bảo thời gian theo quy định. Năm 2012 và 2013 việc ban hành công văn hướng dẫn, lập và phê duyệt kế hoạch thanh tra đã đi vào nề nếp, đảm bảo thời gian theo quy định.
Từ năm 2011 đến nay, Tổng cục Thuế thường xuyên có công văn đề nghị các Cục Thuế bổ sung kế hoạch thanh tra nhằm đảm bảo số cuộc thanh tra phải thực hiện theo tỷ lệ từ 1,3 đến 1,6%/tổng số doanh nghiệp đang quản lý (do nhận thức về số doanh nghiệp quản lý có sự khác nhau: Tổng cục Thuế xác định doanh nghiệp quản lý bao gồm cả các xí nghiệp trực thuộc công ty – trong khi thực tế khi ban hành quyết định thanh tra doanh nghiệp thì bao hàm thanh tra luôn cả xí nghiệp trực thuộc).
2.3.1.4. Những thành tựu và hạn chế trong việc lập kế hoạch thanh tra thuế tại Cục Thuế tỉnh An Giang
Qua thời gian việc thực hiện thanh tra thuế theo quy trình đã giúp cơ quan thuế
có những chuyển biến tích cực trong công tác lập kế hoạch thanh tra, cụ thế:
- Quy trình quy định rõ ràng hơn từng bước công việc gắn với trách nhiệm của từng bộ phận, từng người tham gia quy trình đã t ạo nên sự chuyên môn hóa trong công việc và phù hợp với trình độ của từng cán bộ, hạn chế được tình trạng thông đồng giữa đối tượng nộp thuế và cán bộ thuế.
- Áp dụng kỹ thuật thu thập thông tin, dữ liệu, phân tích, đánh giá rủi ro để lựa chọn chính xác hơn đối tượng cần thanh tra thuế.
- Chú trọng khâu lập kế hoạch và chuẩn bị trước khi tiến thanh tra nhằm đảo bảo việc thanh tra tại cơ sở kinh doanh mất ít thời gian, nguồn lực và hiệu quả nhất.
- Tăng cường hoạt động kiểm soát, đánh giá chất lượng thanh tra.
- Nâng cao vao trò của Cục Thuế trong việc lập kế hoạch thanh tra, phân tích rủi ro và chỉ đạo thực hiện thanh tra theo cơ chế tự khai tự nộp.
- Chuyển đổi từ cơ chế thanh tra nhằm vào tất cả các ĐTNT sang cơ chế thanh tra theo mức độ đánh giá rủi ro, đánh giá vi phạm về thuế, gian lận về thuế.
- Chuyển từ việc thanh tra theo diện rộng sang thanh tra theo hệ thống tiêu thức lựa chọn đi vào chiều sâu mức độ vi phạm.
- Chuyển từ Thanh tra toàn diện sang thanh tra theo chuyên đề, nội dung vi phạm. Tuy nhiên, việc thực hiện thanh tra theo quy trình nêu trên vẫn còn một số bất cập, nhất là việc lập kế hoạch chưa chính xác, không cân đối với nguồn lực hiện có.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác lập kế hoạch thanh tra thuế tại Cục Thuế tỉnh An Giang cũng còn nhi ều hạn chế như:
- Hiện nay, ứng dụng tin học hỗ trợ quản lý doanh nghiệp, hỗ trợ công tác lập kế hoạch thanh tra thuế cấp Cục Thuế hoàn toàn khác với Chi cục Thuế, vì vậy không thể tích hợp dữ liệu một cách đồng nhất để phân tích, đánh giá rủi ro cho tất cả các doanh nghiệp trong toàn tỉnh. Do đó, việc lựa chọn doanh nghiệp qua phân tích rủi ro các doanh nghiệp trong toàn tỉnh sẽ không khách quan, không phản ánh chính xác mức độ rủi ro của doanh nghiệp do 02 phương pháp đánh giá khác nhau.
- Áp dụng các tiêu chí để đánh giá rủi ro theo hướng dẫn của Tổng cục Thuế lựa chọn doanh nghiệp có rủi ro từ cao xuống để đưa vào kế hoạch thanh tra có mặt tích cực là doanh nghiệp được thanh tra được lựa chọn một cách ngẫu nhiên qua phân tích theo những tiêu chí nhất định. Tuy nhiên, phát sinh rất nhiều trường hợp (năm 2010, 2011) doanh nghiệp có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ, thực tế chứng minh thanh tra tại các doanh nghiệp này hiệu quả rất thấp (số tiền xử lý qua thanh tra), trong trường hợp này yếu tố kinh nghiệm trong công tác quản lý thuế của cán bộ chưa được tận dụng tốt, mặt khác việc thanh tra này không phù hợp đối tượng thanh tra theo quy định Luật Quản lý thuế - thanh tra những doanh nghiệp có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, đa ngành nghề…
- Việc cho phép các Cục Thuế chủ động đưa vào những tiêu chí động, đồng thời gán điểm cho tất cả các tiêu chí có thể phát sinh những trường hợp tiêu cực khi cán bộ làm công tác lập kế hoạch có thể lựa chọn hoặc loại bỏ nhóm các doanh nghiệp trong quá trình phân tích lập kế hoạch thanh tra.
- Hiện nay, lực lượng làm công tác thanh tra thuế đang quá tải, trong khi theo
định hướng của Tổng cục Thuế, tại các Cục Thuế hàng năm phải thanh tra một số
doanh nghiệp nhất định (những năm gần đây từ 1,5 đến 1,6% và không đề cập đến số lượng CBCC làm công tác thanh tra), vì vậy có xu hướng các Cục Thuế phân tích, lựa chọn đưa vào kế hoạch thanh tra các doanh nghiệp nhỏ, đơn giản để có thể rút ngắn thời gian thực hiện, do đó chất lượng cuộc thanh tra (số tiền xử lý qua thanh tra) thường không cao, những vấn đề nóng tại địa phương chưa được quan tâm đưa vào kế hoạch để xử lý kịp thời. Thậm chí có một số trường hợp doanh nghiệp kinh doanh có dấu hiệu bất thường nhưng cán bộ làm kế hoạch thanh tra cũng không xây dựng đưa vào kế hoạch hàng năm.
- Phân tích rủi ro về thuế đối với doanh nghiệp phải dựa vào thông tin, nguồn thông tin càng chính xác, càng đa dạng thì càng có giá trị. Qua thực tế phân tích nhận thấy thông tin để phân tích hầu hết là thông tin doanh nghiệp cung cấp cho cơ quan thuế dưới dạng: Hồ sơ kê khai thuế, báo cáo tài chính, quyết toán thuế, đăng ký, phát hành và sử dụng hóa đơn…, hoặc thông tin dưới dạng kết quả xử lý của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp dưới dạng: Quyết định xử lý vi phạm hành chính, kết luận thanh tra, biên bản thanh tra… Những thông tin về quy trình sản xuất, năng lực sản xuất, đầu tư máy móc thiết bị của doanh nghiệp, thông tin về đối tác mua bán với doanh nghiệp, thông tin của các ngành có liên quan như Ngân hàng, Hải quan, Công an, Quản lý thị trường hầu như rất hạn chế, trong khi đây là nguồn thông tin rất quan trọng, đáng tin cậy, có thể nêu bật được những rủi ro của doanh nghiệp.
Thực tế, có những trường hợp qua phân tích hồ sơ khai thuế, báo cáo tài chính, quyết toán thuế doanh nghiệp hầu như không có rủi ro, các chỉ tiêu phân tích đều ở mức rủi ro thấp do doanh nghiệp có sự chuẩn bị số liệu từ trước, thậm chí đối với những báo cáo tài chính đã được xác nhận kiểm toán độc lập. Tuy nhiên, khi xác minh thông tin từ ngân hàng, nguồn thông tin do Công an xác minh xác định rất nhiều trường hợp hoạt động mua bán khống, chỉ diễn ra trên giấy, không có thật.
- Vấn đề tồn tại lớn hiện nay trong việc đánh giá chất lượng của công tác lập kế hoạch thanh tra là chưa có sự gắn kết giữa công tác lập kế hoạch thanh tra và công tác phân tích chuyên sâu đề xuất ban hành quyết định tiến hành thanh tra tại doanh nghiệp. Bộ phận lập kế hoạch thanh tra cố gắng thu thập thông tin, dữ liệu để áp vào những tiêu chí đánh giá rủi ro nhằm chọn ra danh sách các doanh nghiệp có
rủi ro về thuế từ cao xuống để trình Tổng cục Thuế phê duyệt kế hoạch thanh tra; trong khi đó Đoàn thanh tra được giao nhiệm vụ thanh tra từng cuộc nhất định cố gắng thực hiện phân tích chuyên sâu về doanh nghiệp để đề xuất ban hành quyết định và tiến hành thanh tra tại doanh nghiệp mà hầu như không quan tâm đến việc tại sao doanh nghiệp này được lựa chọn đưa vào kế hoạch thanh tra, nguồn dữ liệu được thu thập trước đây là gì…việc làm trên gây lãng phí thời gian, bỏ sót nhiều nguồn thông tin phong phú giúp đánh giá rủi ro về thuế của doanh nghiệp.
2.3.2. Thực trạng việc thực hiện thanh tra thuế tại Cục Thuế tỉnh An Giang
2.3.2.1. Về thời gian thanh tra
Các yếu đó đánh giá về thời gian thanh tra được các doanh nghiệp và CBCC ngành thuế phản hồi với kết quả đồng tình rất thấp. Theo quy định tại Luật Quản lý thuế hiện nay, trong đó quy định một số mốc thời gian khi thực hiện thanh tra tại doanh nghiệp: Thời gian thanh tra tại doanh nghiệp không quá 30 ngày, được gia hạn thời gian thanh tra không quá 15 ngày; biên bản thanh tra phải được ký trong thời gian 5 ngày kể từ ngày kết thúc thanh tra; báo cáo kết quả thanh tra phải được thực hiện trong thời gian 15 ngày kể từ ngày kết thúc thanh tra; kết luận thanh tra, quyết định xử phạt vi phạm hành chính qua thanh tra phải được thực hiện trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra. Do đó, thời gian thanh tra tại doanh nghiệp thường kéo dài (có thể từ 30 đến 60 ngày), thực hiện ở nhiều niên độ khác nhau (có khi thanh tra 5 năm), những sai sót nếu doanh nghiệp không phát hiện và xử lý kịp thời hàng năm sẽ bị CQT xử lý truy thu và phạt rất nặng ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra việc thanh tra tại doanh nghiệp kéo dài cũng ảnh hưởng đến việc kinh doanh, chi phí của doanh nghiệp (thường doanh nghiệp phải cử từ 1 đến 2 nhân viên thực hiện cung cấp hồ sơ, chứng từ, giải trình theo yêu cầu của đoàn thanh tra). Do vậy, yếu tố “Thời gian thanh tra không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp” có đến 16% ý kiến rất không đồng ý, 44% ý kiến không đồng ý và 24% không có ý kiến.
Qua cuộc khảo sát đánh giá về tiêu chí thời gian thanh tra, tác giả thu được kết quả qua bảng 2.9.