Về Phương Pháp Xác Định Đmlđ Tổng Hợp



n

Lmin i xdbi

Lmin EVN

i1

dbi

(7)

Trong đó: Lminevn: Lmin bình quân của EVN; Lmini: Lmin của đơn vị i;

dbi: Lao động định biên của đơn vị i; LĐdb: LĐ định biên của EVN.

n: Số đơn vị trực thuộc của EVN.

Với cách tính này, Lmin của EVN qua các năm như số liệu biểu đồ 4. Nhìn vào biểu số liệu và các công thức (5) và (6) có thể nhận xét:

Một là, Về các thông số được đưa vào trong Lmin EVN. Có 2 thông số, đó là Lmin chung (Đã được đề cập ở mục 2.2.3.1). Thông số thứ hai là KđcEVN. Hệ số này được tính từ hệ số điều chỉnh theo vùng và hệ số điều chỉnh theo ngành. Hệ số điều chỉnh theo những đặc tính kinh tế - kỹ thuật của ngành (Kng) đã xác định, nhưng hệ số theo vùng (Kv) lại khá phức tạp. EVN có địa bàn SXKD phủ khắp cả nước. Ngay với từng đơn vị thành viên, cũng có phạm vi hoạt động trên nhiều khu vực. Một số đơn vị thuộc EVN lại có tính lưu động như quản lý đường dây truyền tải, sửa chữa, các Công ty điện lực, thông tin viễn thông điện lực. Vì vậy hệ số điều chỉnh Lmin theo vùng của EVN, lại phải xác định như sau:

0,1x n 0, 2 x m

0,3x l

dbi dbk dbj

K i=1 k1 j1

(8)

v n m l

LÐdbi LÐdbk LÐdbj

i=1 k1 j1


n

Trong đó: - dbi là tổng số LĐ định biên bình quân của đơn vị i trên

i1

địa bàn có hệ số 0,1. n là số đơn vị trực thuộc có hệ số Kv = 0,1.



m

- dbklà tổng số LĐ định biên bình quân của đơn vị k trên địa bàn

k1

có hệ số 0,2. m là số đơn vị trực thuộc có hệ số Kv = 0,2.


l

- dbj là tổng số LĐ định biên bình quân của j đơn vị SXKD trên địa

j1


bàn có hệ số 0,3. l là số đơn vị trực thuộc có hệ số Kv = 0,3.

Nói cách khác, hệ số tăng thêm về Lmin tại EVN còn phụ thuộc vào địa bàn công tác của mỗi người/nhóm NLĐ. Về phương diện tổng quát, trong phạm vi toàn ngành, cách tính trên là khá hợp lý, song cũng không thể bao phủ triệt để các đặc thù, cá biệt, chi tiết của từng đơn vị, từng nhóm loại lao động, chẳng hạn những đơn vị lưu động; hoặc nhóm lao động quản lý khi có các đơn vị lao động luân chuyển trên nhiều khu vực địa lý; Hơn nữa, việc sử dụng lao động định biên trong công thức tính như trên cũng sẽ phản ánh không đầy đủ, không chính xác tình hình thực tế.

Hai là, về quản lý Lmin. Dù tính theo cách nào, Lmin của EVN luôn bị khống chế chặt chẽ về độ lớn. Nếu theo Nghị định NĐ28/CP ngày 28/3/97 của Chính phủ, thì Lmin ngành điện lực, không được vượt quá 2,5 lần Lmin bình quân chung của các DN được giao đơn giá. Còn Nghị định 03/2001 NĐ/CP, cho phép Lmin ngành có thể tăng lên không quá 3 lần Lmin chung (Lmin chung lúc này là 210.000đ), nhưng với các điều kiện không chế về nộp ngân sách, lợi nhuận, bảo đảm quan hệ giữa tăng NSLĐ và tăng tiền lương bình quân. Còn theo Nghị định 206/2004/NĐ/CP ngày 14/12/2004, Chính phủ vẫn đồng ý để ngành điện lực thực hiện Lmin (tối đa) không vượt quá 3 lần Lmin chung (là 290.000đ), đồng thời cũng nới lỏng về mức NSLĐ và mức lợi nhuận phải đạt. Nhìn chung cơ chế quản lý Lmin như trên, đã đạt được một số mục tiêu cơ bản sau:


- Chính phủ vẫn giữ được vai trò điều tiết việc phân phối thu nhập của EVN với tư cách là DN độc quyền nhà nước, bảo đảm duy trì tương quan về thu nhập giữa điện lực với các ngành Công nghiệp khác nói chung, hạn chế những bất cập do tính chất độc quyền cũng như vị trí chiến lược của ngành đối với nền kinh tế, gây ra.

- Là một trong những căn cứ quan trọng để kiểm soát chi phí (về LĐ và TL) của EVN. Trong khuôn khổ duy trì các DN điện lực thuộc sở hữu Nhà nước, và SXKD vẫn mang tính độc quyền, thì cơ chế quản lý Lmin như hiện hành, có nhiều ưu việt và được nhiều nước lựa chọn.

- Sự điều chỉnh Lmin (Từ 2,5 3 lần Lmin chung) đã góp phần không nhỏ tạo động lực vật chất, khuyến khích tăng NSLĐ, đề cao ý thức trách nhiệm, kỷ luật trong SXKD và nâng cao chất lượng các dịch vụ mà ngành điện cung ứng cho xã hội.

Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng và quản lý Lmin của EVN đã bộc lộ những bất cập, hoặc chí ít, những điểm không còn tương thích với cơ chế thị trường, mà hệ quả là không phát huy được đầy đủ hiệu quả SXKD, cả dưới góc độ xã hội cũng như dưới góc độ DN. Những bất cập thể hiện ở mấy điểm dưới đây:

- Mọi mức lương của ngành đều xuất phát từ Lmin được lựa chọn. Mà Lmin của ngành lại bị khống chế "cứng" bởi Lmin chung của Nhà nước và các hệ số (Kv và Kng) cũng do nhà nước quy định. Thế là, ngay từ đầu, các đơn vị trực thuộc EVN đã khó có những lựa chọn tối ưu hơn về chính sách và cơ chế tiền lương, phân phối thu nhập, mặc dù vẫn phải chấp nhận các quy luật của thị trường. Các hệ số điều chỉnh (Kv và Kng) thực chất là những cố gắng nhằm nới lỏng sự kiểm soát của nhà nước về Lmin đối với các DN, nhưng lượng tuyệt đối của mỗi hệ số lại không có những căn cứ rõ ràng và có tính thực tiễn.

93


- Mặc dù đã có những điều chỉnh, nhưng Lmin mà EVN đang thực hiện, chưa thể hiện vị trí chiến lược của ngành đối với nền KTQD. Lmin năm 2004, cũng mới chỉ bằng 80% Lmin quy định cho các DN có vốn nước ngoài trên địa bàn HN và TP Hồ Chí Minh và bằng 1,57 lần Lmin chung của Nhà nước. Đây chưa thể là cơ sở để thiết kế hệ thống lương cho CNVC ngành điện - ngành kinh tế kỹ thuật, có giá trị TSCĐ tới 120.000 tỷ đồng và gần 40% lao động được đào tạo cơ bản, có hàm lượng chất xám cao. Hay nói cách khác, khi Lmin còn bị "đông cứng" ở mức thấp như hiện nay, ngành điện lực nói chung, EVN nói riêng, chưa thể có được cuộc "cách mạng" trong việc thu hút, lựa tuyển những lao động có chất lượng cao. Vì vậy, hàng năm EVN vẫn có tờ trình Chính phủ, cho nới lỏng thêm chính sách tiền lương, nhằm cải thiện thu nhập cho CNVC, dưới lý do "cơ chế đặc thù". Đây là nhu cầu chính đáng của thực tiễn mà có nguyên nhân từ những bất cập của cơ chế quản lý Lmin được quy định từ phía chính phủ.

- Những điều kiện mà các nghị định 28CP (năm 1997); 03 CP (năm 2001), buộc các đơn vị trực thuộc EVN phải bảo đảm về chỉ tiêu lợi nhuận, NSLĐ, mới được thực hiện Lmin (tối đa) bằng 2,5 lần Lmin chung, là những biểu hiện xa rời thực tiễn SXKD của ngành điện. Trên thực tế, do thực lực của nền kinh tế cũng như của EVN, cung chưa đáp ứng đủ cầu, vì vậy, cả 2 chỉ tiêu rất quan trọng của EVN là NSLĐ (tính trên sản lượng điện thương phẩm) và mức lợi nhuận, ngoài những nỗ lực chủ quan của EVN, còn tuỳ thuộc rất lớn (nếu không nói là có tính quyết định) vào điều kiện tự nhiên, tình hình thuỷ văn từng mùa, từng năm. Trong tổng sản lượng mà EVN sản xuất hàng năm, thuỷ điện đã chiếm 60%. Do vậy nếu mùa khô đến sớm, kéo dài và lưu lượng nước tại các hồ Thuỷ điện xuống thấp không đủ cho sản xuất, ngành điện phải tăng công suất nhiệt điện và Diezel để bù. Trong trường hợp này, cả 2 chỉ tiêu trên đều không đạt, nhưng không do lỗi của EVN, thậm chí có thể

94


cường độ làm việc của NLĐ trong toàn EVN lúc này lại tăng lên. Đây là một đặc thù, mà tại nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, đã phải tính đến khi thiết kế cơ chế, chính sách tiền lương.

- Cách thức xây dựng và quản lý mức Lmin nói trên chưa thật sự quán triệt vai trò, vị trí của mức Lmin trong nền KTTT; còn cứng nhắc (cấp trên áp đặt cho cấp dưới) và do đó chưa thể hiện được khả năng cạnh tranh của các DN trên thị trường lao động.

- Các căn cứ pháp lý đề ra để điều chỉnh Lmin cho EVN đều nhằm mục tiêu thúc đẩy SXKD của EVN. Tuy nhiên trên thực tế, cách tính Lmin như công thức (5) và (6) đã bộc lộ sự thiếu gắn kết giữa kết quả SXKD với mức tăng tiền lương. Đơn vị làm tốt, đóng góp nhiều vào kết quả của EVN, xứng đáng được điều chỉnh Lmin cao hơn nhưng cũng chỉ được hưởng như đơn vị chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện để được điều chỉnh mức tăng Lmin theo quy định. Hơn nữa, cách tính này đã bị nhiều đơn vị lợi dụng do áp hệ số điều chỉnh theo khu vực thiếu chính xác (tăng số LĐ làm việc tại các khu vực có hệ số điều chỉnh cao, giảm số LĐ làm việc tại các khu vực có hệ số điều chỉnh thấp).

2.3.2. Thực trạng quản lý định mức và ĐGTL

2.3.2.1. Định mức lao động

ĐMLĐ là 1 trong những căn cứ chủ yếu để xây dựng ĐGTL, là cơ sở của tổ chức nhân lực tại các DN. Tại EVN, trước 1998, do chưa xây dựng được hệ thống mức lao động cho khâu SXKD điện, nên ngành điện sử dụng số liệu định biên do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành, tham khảo tập tài liệu định mức (ngành Năng lượng) của Liên Bang Nga. Về cơ bản, giai đoạn này, công tác ĐMLĐ chưa tìm được hướng đi theo những yêu cầu của KTTT. Mặt khác hệ thống mức lao động ở giai đoạn này thiếu đồng bộ, chắp vá, không thích hợp với đặc tính tổ chức lao động và các điều kiện kinh tế – kỹ thuật của EVN. Hệ thống định biên lao động còn mang nặng tính


bao cấp, luôn có xu hướng tăng qui mô nhân lực, mà không gắn với hiệu quả SXKD. Các nhà Quản lý không nắm được thực tế nhu cầu lao động của ngành, không thể cân đối hợp lý các nguồn lực và đặc biệt, không dự báo và tính toán đúng QTL.

Từ năm 1998, sau khi Chính phủ đồng ý cho EVN áp dụng cơ chế tiền lương đặc thù, công tác ĐMLĐ đã có những cải cách căn bản. Đã xây dựng tập ĐMLĐ SXKD điện, áp dụng thống nhất vào các khâu chính yếu trong toàn EVN. Tập ĐMLĐ bao gồm cả mức chi phí lao động và các tiêu chuẩn hao phí thời gian, qui ra công lao động, có CBCN tương ứng với CBCV. Có 6 hệ thống các công việc SXKD điện được chi tiết hoá, mô tả về các mức hao phí lao động:

- Các công việc quản lý vận hành các nhà máy điện (các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện chạy than, nhiệt điện chạy dầu, Turbin khí, trạm Diezel).

- Các công việc QLVH đường dây tải điện (ĐZ trên không 500 kV, 220 kV, từ 66 110 kV, 35 kV, từ 6 22 kV, dưới 1000 V và ĐZ cáp ngầm từ 6

35 kV).

- Các công việc quản lý vận hành trạm biến áp (hệ thống trạm biến áp 500 kV, 220 kV, 110 kV, trạm lặp cáp quang, trạm thông tin tải ba, chốt bảo vệ đường dây 500 kV, trạm trung gian, tram cắt ranh giới, trạm biến áp phân phối…

- Các công việc thuộc hệ thống điều độ quốc gia và điều độ tỉnh, thành phố.

- Các công việc kinh doanh, cung ứng điện năng (quản lý và ghi chỉ số công tơ, quản lý thu tiền điện, sửa chữa thường xuyên và thay thế công tơ).

- Các công việc phục vụ, phụ trợ quản lý gián tiếp (bao gồm các công việc phục vụ, phụ trợ các công ty điện lực, khối truyền tải điện và các công việc quản lý gián tiếp chung của cơ quan EVN và các đơn vị thành viên).

Để đánh giá thực trạng công tác ĐMLĐ theo các nhóm công việc nói trên tại EVN, Luận án xin tập trung vào một số nội dung sau:


i. Về số lượng, chất lượng mức

Hệ thống ĐMLĐ mà EVN đang áp dụng được xem là khá đầy đủ và toàn diện. Hầu như tất cả các nội dung công việc liên quan đến quá trình sản xuất - Truyền tải - Kinh doanh điện đã được mô tả khá chi tiết và đều đã có định mức. Về mặt chất lượng, theo quy định, ĐMLĐ (KH/TH) chỉ được giao động trong khoảng từ 95 -115 %. Nhưng qua biểu 3, thấy có những năm (2000, 2002) EVN đã thực hiện mức vượt quá giới hạn cho phép nói trên. Mức thời gian quá lớn cũng tức là mức sản lượng thấp đã làm tăng giả tạo QTL. Hệ quả của nó là là tốc độ tăng chi phí lao động lớn hơn tốc độ tăng NSLĐ. Điều đó nói lên rằng, chất lượng mức lao động của EVN vẫn còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

Biểu 2.3: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỨC LAO ĐỘNG QUA CÁC NĂM 2001-2006


Chỉ tiêu

Đơn vị tính

2001

2002

2003

2004

2005

2006

1. MLĐ KH (Tspkh)

Giờ/1000kwh

9,8

8,05

7,83

6,69

6,39

6,15

2. MLĐ TH (Tspth)

Giờ/1000kwh

8,1

7,6

6,7

6,55

6,19

6,11

3. TH mức (Tspkh/Tspth)

%

122

105

116

102

103

101

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 273 trang tài liệu này.

Hoàn thiện công tác quản lý tiền lương trong ngành Điện lực Việt Nam - 12

(Nguồn: Ban LĐTL, EVN)

ii. Về phương pháp xác định ĐMLĐ tổng hợp

ĐMLĐ của ngành điện là tổng hợp mức hao phí của từng phần tử trên toàn hệ thống. Mỗi khâu lại có nhiều công việc khác nhau. Mặt khác, tính chất của sản phẩm điện năng rất đặc thù: Không mang hình thái vật chất, không nhìn thấy, không sờ mó được, không có tồn kho, sản xuất ra phải tiêu dùng hết… nên việc xây dựng mức lao động tổng hợp cho sản phẩm điện năng phức tạp hơn nhiều so với các sản phẩm vật chất khác. EVN được thành lập từ năm 1994, nhưng đến năm 1998, cùng với việc thực hiện Nghị định 28 CP ngày 28 tháng 3 năm 1997 về đổi mới QLTL và thu nhập trong các DN Nhà


nước, thông tư 14/LĐTB&XH về hướng dẫn phương pháp xây dựng ĐMLĐ đối với các DN Nhà nước, EVN mới chính thức thành lập Hội đồng ĐMLĐ mà nhiệm vụ chủ yếu là tổng hợp, hệ thống lại và chuẩn hóa ĐMLĐ áp dụng thống nhất trong toàn EVN để trình liên bộ thẩm định và giao ĐGTL. Cái được của tập định mức là có thể thống nhất áp dụng cho tất cả các mức đơn vị trực thuộc nhưng nhìn chung vẫn còn mang nhiều dấu ấn chủ quan của các cán bộ định mức. Chính vì thế năm 1999 nó đã được sửa đổi bổ sung nhiều. Theo đó:

Kết cấu mức lao động tổng hợp:

Tsp = Tcn + Tpv + TQL = Tsx + Tql (9)

Trong đó:

Tsp: mức lao động tổng hợp (tính bằng giờ công) cho một đơn vị sản phẩm (1.000 kWh);

Tsx: lượng lao động sản xuất cho một đơn vị sản phẩm; Tcn: lượng lao động công nghệ cho một đơn vị sản phẩm;

Tpv: lượng lao động phục vụ, phụ trợ cho một đơn vị sản phẩm; Tql: lượng lao động quản lý cho một đơn vị sản phẩm;

Đơn vị tính giờ công/1000 kwh;

Những đại lượng của mức lao động tổng hợp, được chi tiết hóa và quy định phương pháp tính như sau:

Phương pháp xác định lượng lao động công nghệ

Lượng lao động công nghệ được xác định bằng tổng thời gian định mức (Có căn cứ kỹ thuật hoặc thống kê kinh nghiệm) của những công nhân chính thực hiện các nguyên công theo quy trình công nghệ và các công việc không thuộc nguyên công để SXKD điện năng trong các điều kiện tổ chức, kỹ thuật xác định. Trường hợp một nguyên công được thực hiện trên nhiều máy móc thiết bị khác nhau, có mức thời gian và sản lượng khác nhau thì tính mức bình quân gia quyền.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/10/2022