Tác Động Của Fdi Đối Với Nền Kinh Tế Các Nước Đang Phát Triển.


phát triển kỹ thuật thông qua việc sử dụng là nhằm mục đích khai thác chất xám của các nước đi trước, quyết tâm du nhập công nghệ tiên tiến để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế với các nước công nghiệp phát triển.

Singapore là một minh chứng điển hình cho thấy tác dụng của FDI đối với việc giúp các nước chậm phát triển rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp phát triển. Là một quốc gia nhỏ, ít tài nguyên thiên nhiên (chỉ

được biết đến như là kho chứa hàng tái xuất khẩu trong khu vực Đông - Nam

á), Singapore đL nhanh chóng phát triển thành một quốc gia có nền kinh tế hàng đầu khu vực Đông -Nam á nhờ coi trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngay từ khi tuyên bố thành lập năm 1965, chính phủ Singapore đL có

chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài vào các cơ sở công nghiệp xuất khẩu.

Sau khi lên cầm quyền, ông Lý Quang Diệu đưa ra quan điểm "hoan nghênh

đầu tư hơn viện trợ". Nhờ vậy, tính đến năm 1980 đầu tư trực tiếp nước ngoài

đL chiếm 98% tổng số vốn đầu tư của cả nước (toàn bộ số vốn đầu tư là 1,41 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,189 tỷ USD). Đến năm 1989 con số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đL lên tới 1,198 tỷ USD. Chỉ sau hơn 20 năm thực hiện chính sách mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hướng tới xuất khẩu, Singapore từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, sống nhờ vào viện trợ nước ngoài đL trở thành nước xuất khẩu tư bản và là trung tâm tài chính của khu vực [40]. Không những đối với Singapore, mà đối với tất cả các nước được mệnh danh là “con Rồng Châu

á”, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nguồn lực tài chính, kỹ thuật chủ yếu giúp họ tạo nên sự thần kỳ về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Như vậy rõ ràng FDI là chiếc chìa khoá vàng giúp cho tất cả các nước đang, hoặc chậm phát triển mở cửa vào một tương lai tốt đẹp hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

1.1.1.2. Tác động của FDI đối với nền kinh tế các nước đang phát triển.

Khác với các nguồn vốn khác, khi đổ vào các nước đang phát triển, FDI bao giờ cũng đem theo các nguồn lực bổ sung khác như bí quyết công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cách thức tiếp cận thị trường

Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thủ đô Hà Nội trong giai đoạn 2001- 2010 - 3


xuất khẩu mới,...đó là những nhân tố mà các nước đang phát triển hết sức cần. FDI cũng là hình thức đầu tư không trở thành nợ và có tính chất "bén rễ" ở nước sở tại (không dễ rút đi trong thời gian ngắn), đồng thời FDI còn giúp đẩy nhanh tiến độ phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế hướng ngoại và hội nhập vào sự phân công lao động, hợp tác quốc tế. Để thấy

được tác động to lớn của FDI đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển chúng ta cần tiến hành phân tích tình hình tăng trưởng kinh tế thế giới trong các giai đoạn vừa qua. Vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước, với tốc độ phát triển rất cao của khoa học, công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin), cùng với nó là mối liên kết sản xuất được đẩy lên ở mức qui mô lớn làm cho năng suất lao

động tăng cao. Để phát huy các yếu tố này nhằm thu lợi nhuận lớn, các nhà

đầu tư không những mở rộng sản xuất trong nước mà còn vươn ra bên ngoài tìm kiếm thêm thị trường và tận dụng những lợi thế về lao động, tài nguyên thiên nhiên ở các nước sở tại. Nhật bản là một ví dụ cụ thể cho vấn đề này: Vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, mỗi năm Nhật chỉ đầu tư khoảng 1,2

tỷ USD cho khu vực châu á, mười năm sau con số này đL tăng gấp 6 lần [40]. Nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật và mức đầu tư lớn, kinh tế thế giới đL tăng trưởng với tốc độ chóng mặt. Trong 230 năm của thời đại công nghiệp (1740 - 1970) kinh tế thế giới tăng 1000 lần, 20 năm sau đó (1970 - 1990) giá trị sản xuất lại được tăng lên gấp đôi [52]. Cùng với việc đem lại tốc

độ tăng trưởng kinh tế đến chóng mặt cho thế giới nói trên, FDI còn giúp hình thành nhiều quốc gia từ chỗ nghèo nàn lạc hậu trở thành nước sản xuất công nghiệp tiên tiến (điển hình như Trung Quốc, Hàn Quốc...). Qua đó ta có thể khẳng định rằng: Ngày nay bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển ổn định và nhanh chóng, hoặc biến đổi nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá (đặc biệt là các nước đang phát triển) đều phải vận dụng đồng thời hai quá trình:

Thứ nhất, đẩy mạnh việc áp dụng có hiệu quả các phát minh, sáng chế và những thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào nền kinh tế, đồng thời đổi mới, hiện đại hoá thường xuyên công nghệ sản xuất.


Thứ hai, không ngừng tăng cường mở rộng qui mô và tính hiệu quả các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn FDI

Dù phải chịu sự chi phối của chính phủ, nhưng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa quốc gia của nhà đầu tư và quốc gia sở tại. Do bên nước ngoài trực tiếp quản lý sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp có vốn FDI, nên mức độ khả thi của dự án khá cao (vì họ có phương thức quản lý tiên tiến và đặc biệt là có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu). Hiệu quả kinh doanh là cái đích cuối cùng mà các nhà đầu tư muốn vươn tới. Muốn đạt được nó, họ phải tìm các biện pháp để nâng cao năng suất lao động và tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường. Một trong những biện pháp đó là chú trọng lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý cho cán bộ và tay nghề cho công nhân trong doanh nghiệp của mình. Như vậy FDI không những có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư mà còn cả ở nước sở tại.

Một trong những tác động quan trọng nhất của FDI đối với nước sở tại là góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hóa. Thông qua FDI, chính phủ các nước này có thể chú trọng ưu tiên phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành kinh tế phù hợp đặc điểm của từng vùng lLnh thổ, các ngành kinh tế phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Vì phần lớn các dự án có vốn FDI được triển khai trên lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nên đL đáp ứng đúng nhu cầu của các nước

đang phát triển (thực hiện công nghiệp hoá và cải thiện điều kiện dân sinh). Như vậy, FDI không những góp phần làm tăng nhanh sản lượng sản phẩm hàng hoá của các ngành công nghiệp, dịch vụ mà còn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Đánh giá về những tác động của FDI đối với nền kinh tế các nước đang phát triển có thể khái quát những tác động đó trên các mặt sau:

Thứ nhất, tạo điều kiện để tăng thêm nguồn vốn đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế. Do khả năng tích luỹ kém của nền kinh tế nên các nước đang phát triển luôn ở trong tình trạng thiếu vốn, để thực hiện mục tiêu công nghiệp


hoá nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không đủ, vì vậy cần bổ sung cho sự thiếu hụt này bằng các nguồn vốn từ bên ngoài, trong đó FDI là nguồn quan trọng nhất. Lý do để đưa ra nhận định này là vì FDI có nhiều ưu điểm hơn trong tương quan so sánh với các nguồn vốn khác từ bên ngoài (chẳng hạn như đối với khoản vay từ ngân hàng tư nhân thì bắt buộc phải trả lLi xuất, bất kể việc sử dụng các khoản tiền vay có mang lại lợi nhuận hay không), còn đối với FDI khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thì các nhà đầu tư phải tìm cách tháo gỡ khó khăn (như tăng thêm vốn đầu tư, áp dụng công nghệ tiên tiến hơn, mở rộng thị trường đầu tư hoặc chuyển đổi mặt hàng kinh doanh), nhằm xoay chuyển tình thế, bảo toàn được vốn và đem lại lợi nhuận. Trường hợp các biện pháp trên không mang lại hiệu quả, các nhà đầu tư phải tự gánh chịu thiệt hại.

Thứ hai, thực hiện mục tiêu chuyển giao và phát triển công nghệ. Song hành cùng FDI, máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến cũng như các thành tựu khoa học - kỹ thuật mới của thế giới cũng thâm nhập vào nước sở tại. Nhờ có sự thâm nhập này mà khoảng cách về trình độ sản xuất của nước sở tại được rút ngắn lại so với các nước phát triển trên thế giới. Phần lớn các công nghệ của TNCs được chuyển giao sang nước sở tại thông qua các chi nhánh của nó (doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nước ngoài) bao gồm: Những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ mới, công nghệ thiết kế và xây dựng, công nghệ quản lý, marketing,...

Thứ ba, góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bởi vì nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn đề xL hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn FDI đều tổ chức các khoá đào tạo nghề tại nước sở tại, trường hợp cần thiết họ còn gửi lao động đi để được đào tạo ở nước ngoài. Bên cạnh giúp nước sở tại có được đội ngũ lao động với trình độ chuyên môn cao, có tác phong công nghiệp, tạo việc làm cho nhiều người thuộc lĩnh vực cung cấp dịch vụ.

Thứ tư, thúc đẩy xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp có vốn FDI luôn phải nhập nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh của mình và


đưa các sản phẩm đL qua gia công chế biến ra bán ở thị trường trong và ngoài nước, qua đó đL thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của nước sở tại. Đối với các nhà ĐTNN, xuất khẩu là yếu tố quan trọng giúp họ thu được lợi nhuận cao, thông qua xuất khẩu những lợi thế so sánh của các yếu tố sản xuất được khai thác có hiệu quả hơn. Bởi vậy, đẩy mạnh xuất khẩu luôn là ưu tiên đặc biệt của các doanh nghiệp có vốn FDI. Đối với nước sở tại, xuất khẩu là nhân tố quyết định đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Như vậy, tác dụng thúc

đẩy xuất khẩu của FDI đL mang lại lợi ích cho cả hai phía.

Thứ năm, hình thành liên kết các ngành công nghiệp. Trong thực tế, luôn tồn tại hiện tượng đầu ra của doanh nghiệp này lại là đầu vào của doanh nghiệp kia, do đó nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn FDI thường xuyên xẩy ra. Xuất phát từ nhu cầu này, mối liên kết giữa các ngành công nghiệp được hình thành và phát triển. Việc hình thành mối liên kết này là cơ sở quan trọng để chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và thúc đẩy xuất nhập khẩu của nước sở tại.

Ngoài những tác động trên, FDI trong một chừng mực nào đó có thể góp phần nâng cao chất lượng môi trường, xoá bỏ độc quyền, tăng cường an ninh quốc gia, phát triển văn hoá - xL hội,... Tuy nhiên, những tác động này chỉ có thể có khi nước sở tại ban hành và thực thi được các chính sách nhằm quản lý tốt các hoạt đầu tư nước ngoài.

1.1.2. Cơ chế, chính sách thu hút FDI.

Để điều tiết nền kinh tế ở tầm tế vĩ mô, Nhà nước vừa có chức năng hoạch định, thực thi các chính sách kinh tế vừa trực tiếp là một thành viên của nền kinh tế đa thành phần. Với chức năng hoạch định, Nhà nước quyết định chủ trương, định hướng và quy hoạch các chương trình kinh tế, xác định mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước. Với chức năng điều hành, Nhà nước tạo lập môi trường đầu tư, ban hành pháp luật đưa ra cơ chế, chính sách khuyến khích và các biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô, hướng dẫn, giám sát và kiểm tra việc thực thi pháp luật. Là một trong những thành phần kinh tế, Nhà nước trực tiếp tham gia đầu tư vào các cơ sở hạ tầng kinh tế - xL


hội (có thể sản xuất hàng hoá song rất hạn chế), thông qua các doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của mình.

1.1.2.1 Khái niệm về cơ chế, chính sách thu hút FDI

Sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN Đông âu và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đL dẫn đến tiến trình cải tổ toàn bộ hệ thống thể chế và thiết chế ở nhiều nước. Công cuộc cải tổ

được thể hiện qua việc các quốc gia đL ban hành hàng loạt các chính sách mới, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và thực thi cơ chế mới phù hợp với nền kinh tế thị trường. Vào thời điểm này, dưới góc độ thuộc lĩnh vực khoa học chuyên ngành, các nhà kinh tế đL có những quan điểm khác nhau về khái niệm cơ chế, chính sách. Theo tác giả quan điểm sau đây là sát thực với chuyên ngành kinh tế chính trị nhất.

Cơ chế kinh tế xét dưới dạng trừu tượng nhất, đó là một hệ thống hữu cơ của sự tự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết và điều hoà lẫn nhau của các yếu tố cấu thành nền kinh tế dưới tác động của các quy luật khách quan. Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế được hiểu là sự điều tiết, điều hoà và thích ứng lẫn nhau của các yếu tố cung, cầu, giá cả dưới tác động của các quy luật thị trường. Theo A.Smith thì đó là “bàn tay vô hình” chi phối hoạt động của các

chủ thể thị trường. ở dạng khái quát nhất: Cơ chế của nền kinh tế, là tổng hoà của các thể chế và thiết chế kinh tế mà nhờ đó con người có thể tác động vào sự vận động của nền kinh tế một cách tích cực và có hiệu quả, nhằm định hướng vào các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản. ở đây, cơ chế kinh tế còn biểu thị quan hệ chế ước và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành trong một thể chế kinh tế xác định.

Trong đó: Thể chế kinh tế được hiểu là các khuôn khổ pháp lý được xL

hội xác lập, dựa trên quyền tài sản để chuẩn mực hoá hành vi kinh tế của các chủ thể và xác định phạm vi hoạt động, cũng như thụ hưởng các lợi ích nhờ hoạt động kinh tế đó sinh ra, còn thiết chế kinh tế là bộ máy điều hành nền kinh tế.


ở dạng cụ thể, thể chế kinh tế là một hệ thống các quy tắc pháp quy và các phương thức vận hành, được Nhà nước xác lập để điều khiển sự vận động của các lĩnh vực kinh tế và hành vi của các chủ thể trong sản xuất, lưu thông phân phối các sản phẩm sau hoạt động kinh tế [33].

Vì cơ chế kinh tế phát huy được tác dụng trong vận hành thể chế kinh tế nên còn được gọi là cơ chế vận hành kinh tế. Vận hành nền kinh tế thị trường là cơ chế thị trường. Nó là cơ chế tự điều tiết và chỉ chịu chi phối bởi các qui luật khách quan. Chỉ khi nào có nhận thức đúng đắn về các qui luật khách quan, con người mới đưa ra được cơ chế vận hành nền kinh tế phù hợp.

Thể chế kinh tế và cơ chế vận hành nền kinh tế là hai mặt của một hệ thống. Thể chế kinh tế xây dựng khuôn khổ, xác định phạm vi hoạt động cho các chủ thể hành vi phải tuân theo trong hệ thống, còn cơ chế vận hành kinh tế chỉ ra cho các chủ thể phương thức hoạt động trong phạm vi đL được quy định và mối quan hệ giữa các chủ thể đó. Thomas. L. Friedmxir coi hệ thống kinh tế xL hội là phần cứng, còn thể chế kinh tế là phần mềm. Như vậy, phần cứng chứa đựng nền kinh tế và cơ chế hoạt động của nó, còn phần mềm vận hành sự hoạt động đó.

Trong thực tiễn, để tiến hành quản lý các hoạt động kinh tế - xL hội, Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý đL tạo lập và sử dụng các công cụ quản lý

để truyền dẫn các tác động của mình lên các đối tượng, khách thể quản lý. Chính nhờ các công cụ quản lý mà Nhà nước truyền tải được các ý định và ý chí của mình lên mỗi con người, mỗi bộ phận trong hệ thống, trên toàn bộ các vùng, các khu vực, các ngành của nền kinh tế. Các công cụ quản lý kinh tế - xL hội được Nhà nước sử dụng bao gồm: Kế hoạch, Pháp luật, các chính sách kinh tế - xL hội, bộ máy nhà nước, tài sản của nhà nước, hệ thống thông tin nhà nước, văn hoá dân tộc [29].

Chính sách là một loại quyết định quản lý mà tầm ảnh hưởng của nó lớn hơn các quyết định tác nghiệp. Đó là các quyết định chung, hướng dẫn đối tượng quản lý thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính sách tồn tại ở các cấp của hệ thống quản lý nó bao gồm: Chính sách quốc gia, chính sách ngành,


chính sách địa phương, vùng lLnh thổ, công ty và bao gồm nhiều lĩnh vực của

đời sống chính trị xL hội. Trong kinh tế có các chính sách cơ bản sau: Chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập, ngân sách, tiết kiệm,... Chính sách là những tài liệu chỉ dẫn, nó có phạm vi co dLn nhất định, việc đề ra các chính sách phù hợp sẽ khơi dậy nhiều tiềm năng mới nhờ nó mà nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Vì đối tượng quản lý luôn vận động và biến đổi qua từng thời kỳ, nên một chính sách cứng nhắc sẽ mất đi tính hợp lý của nó theo thời gian. Bởi vậy, việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách luôn là điều cần thiết trong bất kể giai đoạn phát triển nào của nền kinh tế.

Là một trong những công cụ quản lý quan trọng nhất của Nhà nước, các chính sách kinh tế - xL hội có vai trò hết sức to lớn được thể hiện:

- Là công cụ quan trọng góp phần định hướng hành vi của các chủ thể kinh tế - xL hội để cùng hướng tới những mục tiêu của nền kinh tế.

- Được Nhà nước ban hành để giải quyết những vấn đề bức xúc phát sinh trong đời sống kinh tế - xL hội, điều tiết những mất cân đối, những hành vi không phù hợp, nhằm tạo một hành lang pháp lý cho các hoạt động xL hội theo các mục tiêu đL đề ra.

- Khác với các công cụ quản lý khác, phần lớn chính sách của Nhà nước có vai trò kích thích, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế - xL hội. Bản thân mỗi chính sách khi hướng vào việc giải quyết một vấn đề bức xúc đL làm cho sự vật phát triển thêm một bước, đồng thời lại tác động lên các vấn đề khác, làm nảy sinh những nhu cầu phát triển mới.

Về bản chất, chính sách phản ánh đường lối phát triển kinh tế - xL hội của

đất nước, các quan điểm, tư tưởng phát triển đất nước. Đó là các nguyên tắc thể hiện bản chất của chế độ xL hội, được dùng làm cơ sở để điều hành trong tiến trình xây dựng nền kinh tế đất nước. Các quan điểm phản ánh trong chính sách là kim chỉ nam cho hoạt động của tất cả các ngành, lĩnh vực và địa phương trên cả nước.

Nếu tiếp cận theo hệ thống, thì chính sách là một hệ thống gồm hai nhóm lớn: Nhóm thứ nhất là các chính sách kinh tế, chủ yếu gồm có chính sách cơ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/01/2023