Đổi Mới Quy Trình Xây Dựng Chính Sách Phát Triển Giáo Dục Đại


chức nâng cao năng lực (kiến thức và kỹ năng) về vận động chính sách; hỗ trợ một phần công tác hậu cần để thực hiện các hoạt động vận động chính sách như: tổ chức các hội thảo, chương trình truyền hình, báo chí… Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu chính sách nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT định hướng XHCN. Đây phải được xem là nhiệm vụ cấp thiết, cần được ưu tiên. Việc nghiên cứu chính sách phát triển GDĐH phải được thực hiện ở tất cả các khâu và trên mọi phương diện: chất lượng , mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, tổ chức, phát triển nguồn nhân lực, tài chính, hiệu quả....của GDĐH. Các kết quả nghiên cứu thu được phải sử dụng như những bằng chứng để hoạch định chính sách. Chỉ có như thế, các chính sách đưa ra mới bảo đảm được tính khoa học và thực tiễn; bao hàm hết hệ thống các mục tiêu phát triển và phù hợp với quan điểm của Đảng và nhà nước coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Thông qua việc nghiên cứu chính sách, tiến hành tổng kết, đánh giá một cách sâu sắc, khách quan những tác động đa chiều về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa...của các chương trình, chiến lược, văn bản qui phạm pháp luật, cơ chế vận hành và mô hình quản lý đã được triển khai, áp dụng trong hệ thống GDĐH Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Trên cơ sở đó nhận biết tính tất yếu của yêu cầu đổi mới tư duy trong hoạch định chính sách phát triển GDĐH giai đoạn từ nay đến năm 2010, năm 2020 và những năm tiếp theo; đồng thời nâng cao nhận thức về các thách thức của GDĐH trước yêu cầu của CNH, HĐH, ảnh hưởng ngày càng tăng của xu thế toàn cầu hóa và giáo dục qua biên giới.


Tạo lập sự đồng thuận xã hội; làm cho toàn xã hội có cùng nhận thức, cùng ý chí và hành động vì một mục tiêu chung của những nhiệm vụ chính trị cụ


thể với tinh thần tự giác và trách nhiệm công dân cao đối với sự nghiệp GDĐH của đất nước. Đó cũng là quá trình đối thoại giữa những tổ chức và cá nhân chịu trách nhiệm chính trong việc vạch chính sách và những tổ chức và cá nhân chịu trách nhiệm chính triển khai, thi hiện chính sách. Đôi khi nó còn được mở rộng thông qua các cuộc điều tra lấy dư luận xã hội. Vì vậy, để chính sách sát với tình hình thực tế và dễ đi vào cuộc sống, cần thiết phải tổ chức đối thoại sớm trong quá trình đưa ra quyết định. Các cuộc đối thoại nên giống nhau và công bằng cho tất cả các bên. Thời gian đối thoại phải đủ để đáp ứng yêu cầu hội đàm. Các thông tin liên quan đến nội dung thảo luận phải được chuẩn bị sẵn. Kết quả đối thoại phải đưa ra được những thông tin phản hối và những thông tin này phải được chuyển tải đến cơ quan xây dựng chính ssách và người ra quyết định chính sách. Trên thực tế, vì những lý do kinh tế và chính trị, một chính sách cụ thể nào đó không thể đáp ứng hoàn toàn quyền lợi của tất cả các nhóm lợi ích trong xã hội. Do đó, mong muốn đưa ra một chính sách phát triển GDĐH thỏa mãn được toàn bộ các yêu cầu và mục tiêu của một loại chính sách công là rất khó thực hiện. Tuy nhiên, về mặt chính trị, yêu cầu có tính bắt buộc của bất kỳ một chính sách phát triển GDĐH nào khi ban hành là cần đạt được trạng thái cân bằng cho các mục tiêu công cộng, có nghĩa là tạo ra một kết quả mà bằng bất kỳ một cách nào khác không thể đạt được. Đó là sự cân bằng những lợi ích quốc gia, lợi ích từng cơ sở đào tạo dưới tác động của thị trường. Ảnh hưởng tương đối của từng nhóm lợi ích cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhóm chính là điều kiện mà nhờ đó các quyết định chính sách tương đối có hiệu quả về kinh tế và khả thi về chính trị.


Việc hoạch định chính phát triển GDĐH cũng là quá trình định hướng chính trị cụ thể với một khung thể chế rõ ràng và các kết quả nghiên cứu phân loại đối tượng tác động, thụ hưởng trong mối tương quan giữa các nhóm lợi ích cụ thể đối với những chính sách hiện hữu cả về lý luận và thực tiễn một cách khoa học và toàn diện trong lĩnh vực GDĐH. Trên cơ sở xác định đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế-xã hội tổng thể trong từng giai đoạn, việc xây dựng chính sách phải đề ra được các quyết sách chính xác, trên cơ sở đó tạo ra những mở đột phá khẩu, đồng thời dự báo được thay đổi chính sách kịp thời, sát với tình hình và giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển. Chính sách và biện pháp hoàn toàn không theo nguyên tắc cứng nhắc, mà luôn đổi mới theo sát với thực tế. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, các chính sách được đề ra phải chú trọng đến tính tổng thể, có tầm nhìn dài hạn, toàn cục và được xây dựng trên cơ sở cân nhắc rất kỹ mục tiêu cho từng thời kỳ.


Trước khi đưa vào cuộc sống, chính sách cần có bước thẩm định. Thẩm định chính sách là việc ước tính hay xác định hiệu quả kinh tế-xã hội của một chính sách cụ thể dự kiến đưa ra áp dụng tại một không gian và thời gian nhất định. Để làm được việc này, ngoài việc xem xét các đặc trưng riêng biệt của từng loại chính sách (tính thực tiễn, sự phù hợp, mức độ ảnh hưởng đến các nhóm lợi ích…), cần phải đánh giá các yếu tố rủi ro hữu hình và vô hình khi áp dụng chính sách vào thực tế (phản ứng xã hội, tác động thúc đẩy hay làm chậm lại những quá trình phát triển…) và những yếu tố luật pháp ảnh hưởng đến các nhóm quyền lực và lợi ích khác nhau. Để bảo đảm tính minh bạch, việc thẩm định chính sách phát triển GDĐH phải có sự tham gia của các cơ quan lập chính sách

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.


của các các bộ, ngành; các chuyên gia, các nhà quản lý giáo dục và đào tạo; các nhà quản lý trường đại học, cao đẳng và đội ngũ luật sư. Những người tham gia thẩm định chính sách đòi hỏi phải có tính kiên trì, tự tin, năng động... cũng như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức.

Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 27


3.3.4.2. Đổi mới quy trình xây dựng chính sách phát triển giáo dục đại

học


- Chuyển việc xây dựng chính sách từ chỗ chủ yếu dựa vào kinh nghiêm, nhu cầu thực tế sang dựa trên các bằng chứng, trên cơ sở phát hiện những vấn đề có tính chiến lược để tiến hành nghiên cứu hoạch định các chính sách chủ động, dài hạn để việc tổ chức thực hiện chính sách đạt được tính nhất quán và ổn định; chuyển dần từ việc ra các chính sách giải pháp, mang tính tình thế dễ gây bất ổn và mâu thuẫn trong thực hiện sang các chính sách hiệu quả của cả hệ thống GDĐH và giảm dần các yếu tố làm sai lệch hệ thống; chuyển dần việc điều chỉnh chính sách từ chủ yếu theo định tính sang kết hợp cả định tính với định lượng với phương pháp luận khoa học và đa dạng hơn; chuyển từ chính sách theo kiểu mệnh lệnh hành chính, duy ý chí sang chính sách dựa trên cơ sở các nghiên cứu, được tham vấn và đồng thuận của xã hội; chuyển từ việc giữ bí mật về các chính sách sang công khai hóa chính sách.


- Thiết lập sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan được giao trách nhiệm chuyên trách quản lý nhà nước về GDĐH với các bộ ngành và các cơ quan nhà nước khác trong suốt quá trình tổ chức thự hiện chính sách.


- Thay vì chỉ tập trung vào khâu tổ chức thực hiện chính sách như hiện nay, mở rộng các cuộc vận động chính sách ngay từ khi bắt đầu của một chu trình


chính sách. Trên thực thế, nhiều vấn đề khó khăn nảy sinh liên quan đến chính sách chỉ có thể giải quyết triệt để bằng quá trình vận động chính sách. Vận động chính sách có thể thông qua các cuộc họp, tập huấn, hội thảo, hoặc bắt đầu từ các nghiên cứu, khảo sát, đánh giá dự án, các bài học kinh nghiệm, thông tin từ môi trường thông tin đại chúng …. Việc vận động chính sách phát triển GDĐH nên tổ chức dưới một số hình thức như mời các nhà hoạch định chính sách tham gia các cuộc hội thảo chuyên đề; lấy ý kiến đóng góp trực tiếp của các giáo sư, cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý trường đại học và các nhà chuyên môn trong các hội thảo tham vấn, đóng góp ý kiến về chính sách hoặc thông qua chia sẻ tài liệu, báo cáo, thư trưng cầu…Tổ chức các hoạt động vận động chính sách phải theo một kế hoạch cụ thể có tính hệ thống.


- Tăng cường công tác lập kế hoạch, xây dựng lộ trình triển khai chính sách. Kế hoạch và lộ trình triển khai chính sách phải được dựa trên những số liệu rõ ràng và đáng tin cậy về thực trạng để có căn cứ đánh giá tác động của chính sách sau khi đưa chính sách vào thực hiện. Việc lập kế hoạch và xây dựng lộ trình triển khai chính sách còn góp phần nâng cao nhận thức, phân công trách nhiệm của các cơ quan chịu quản lý nhà nước và quản lý đào tạo các cấp trong quá trình theo dõi, giám sát chính sách.


- Tổ chức tuyên truyền chính sách để nâng cao sự hiểu biết chính sách phát triển GDĐH đối với các nhóm lợi ích trong xã hội và từng đối tượng chính sách là rất quan trọng trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển GDĐH. Tất cả các sinh viên, giảng viên, phụ huynh, người sử dụng lao động và những người có liên quan khác đến GDĐH phải hiểu được trách nhiệm và quyền lợi của họ khi tham gia vào môi trường GDĐH. Hiện tại, các đối tượng này nhận thức về chính


sách phát triển GDĐH còn rất hạn chế. Cần cụ thể hóa mối quan hệ giữa cơ quan soạn thảo chính sách và các trường đại học, cao đẳng. Hiệu trưởng các trường đại học và cao đẳng phải là người chịu trách nhiệm về tiến trình đổi mới và đưa GDĐH nước ta hội nhập với GDĐH thế giới.


- Xóa bỏ các thủ tục hành chính phiền hà, thực hiện phân cấp trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện chính sách nhằm tránh chồng chéo, sách nhiễu, tham nhũng trong giám sát, đánh giá và điều chỉnh chính sách. Việc điều chỉnh chính sách phải bảo đảm tính minh bạch, phát huy mạnh mẽ vai trò và trách nhiệm của đoàn thể. Trong các văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện chính sách cần tăng các nội dung về quy định biện pháp chế tài để thúc đẩy quá trình nâng cao nhận thức, đặc biệt là quan niệm, tính cách của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc thực thi chính sách.


- Điều chỉnh chính sách kịp thời khi phát hiện có những điểm chính sách không còn phù hợp với những bối cảnh mới thay đổi. Nội dung điều chỉnh phải bao gồm các khuyến nghị rõ ràng với hệ thống khung chính sách có những cam kết, quy định trách nhiệm và nguồn lực cụ thể để thực thi chính sách; phải có sự cam kết và chỉ đạo sát sao của lãnh đạo, đặt biệt ở các cơ quan chủ chốt. Thông báo thường xuyên trên những phương tiện thông tin đại chúng tình hình, kết quả phản biện, giám sát, đánh giá và điều chỉnh chính sách cả ở phạm vi hệ thống và phạm vi cấp trường nhằm giúp cho các cơ sở đào tạo tự điều chỉnh, tránh được những vi phạm chính sách tương tự nếu có.


3.3.4.3. Xây dựng và phát triển đội ngũ các nhà làm chính sách chuyên nghiệp


Xây dựng, nâng cao năng lực bộ máy tổ chức và cán bộ hoạch định và thực hiện chính sách là một trong những nội dung chủ yếu của công tác xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách phát triển GDĐH. Về mặt tổ chức, nó bao gồm hai nội dung chủ yếu: tổ chức bộ máy bộ máy cán bộ hoạch định và triển khai chính sách và giải quyết mối quan hệ làm việc giữa các bộ phận và cá nhân làm công tác hoạch định và triển khai chính sách. Phát triển GDĐH trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, rất cần thiết phải có bộ máy hoạch định và thực thi chính sách phát triển GDĐH đủ sức làm tròn chức năng về hoạch định và triển khai chính sách.


Hoàn thiện, nâng cao năng lực bộ máy tổ chức, cán bộ hoạch định và thực thi chính sách phát triển GDĐH cần phải quan tâm đến những vấn đề sau:


- Xây dựng bộ máy phải gắn liền với việc nâng cao năng lực chuyên môn cuả cán bộ đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của cơ chế thị trường, phù hợp với khả năng và yêu cầu của nền kinh tế đất nước, quán triệt đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước. Không thể thực hiện tốt một chính sách đúng nếu không có bộ máy tổ chức hoàn thiện đủ năng lực đáp ứng yêu cầu của đổi mới cơ chế.


- Xây dựng bộ máy phải xuất phát từ thực tế đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định và thực thi chính sách phát triển GDĐH; đồng thời việc xây dựng bộ máy đòi hỏi phải có một quá trình và bước đi thích hợp. Không thể thay đổi hoàn toàn đội ngũ cũ cán bộ hiện có mà không tính đến sự kế thừa kinh nghiệm. Hiện nay, khi GDĐH trên thế gới có những bước phát triển mới, thường xuyên hơn thì bước đi hiệu quả nhất đối với công tác cán bộ là thường xuyên bồi dưỡng, nâng cấp và cập nhật kiến thức cho họ.


- Đổi mới tổ chức bộ máy lập chính sách gắn với đổi mới cơ cấu tổ chức bên trong của từng cơ quan nhà nước, tới phân công chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận cơ quan nhà nước. Đề cao tính chủ động, tính chịu trách nhiệm của của các cơ quan chính sách trên cơ sở thực hiện phân cấp, giao quyền trong việc nghiên cứu, xây dựng, quản lý, điều hành chính sách; về tổ chức bộ máy, biên chế; tăng cường sự tham gia của các trường đại học và cao đẳng trong việc nghiên cứu, quyết định các chương trình, chính sách quốc gia về phát triển GDĐH. Ban hành hệ thống văn bản quy định về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan liên quan trong việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển GDĐH nhằm thiết lập mố quan hệ cả về trách nhiệm lẫn quyền hạn của các bên liên quan, tạo lên sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành các cấp trong hoạch định và thực thi chính sách.


- Xây dống, hoàn thiốn thố chố vố tố chốc và hoốt ốống cốa Bố Giáo dốc và ốào tốo; tống cốống nống lốc thi hành pháp luốt cho ốối ngố cán bố quốn lý ốối hốc; ốối mối cố chố tuyốn dống, bố trí, số dống, quy hoốch, chố ốố ốãi ngố ốối ngố xây dống và triốn khai thốc thi chính sách nhốm thu hút nhống ngốối có trình ốố, nống lốc, phốm chốt ốốo ốốc vào làm viốc trong lốnh vốc GDốH.


- Lựa chọn đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định và thực thi chính sách phát triên GDĐH vừa có kỹ năng chuyên môn, vừa có tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt tình, say mê công việc. Việc xây dựng chính sách phát triển GDĐH là công việc rất cụ thể, nên đòi hỏi ngưới làm công tác lập chính sách phát triển GDĐH phải có tính kiên trì và sự cẩn trọng trong việc nghiên cứu những hiện tượng, sự kiện và thu thập thông tin, xử lý số liệu.

Xem tất cả 251 trang.

Ngày đăng: 13/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí