nhân (từ lợi tức doanh nghiệp) là không công bằng. Do đó cần có điều chỉnh thích hợp để giảm thiểu sự không công bằng này.
Chúng tôi đề nghị chủ DNTN, DNVVN trực tiếp là người điều hành doanh nghiệp, cần tính cho họ chi phí tương đương 5 triệu đồng/tháng là thu nhập để tái tạo sức lao động cho chính họ trước khi tính thu nhập chịu thuế Thu nhập doanh nghiệp. Ví dụ: một VPLS có thu nhập 150 triệu đồng, sau khi trừ chi phí 60 triệu đồng như trên, thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ là 90 triệu đồng và với thu nhập này họ sẽ phải chịu 2 loại thuế: Thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân từ lợi tức kinh doanh.
2. Nhóm giải pháp liên quan đến chính sách hỗ trợ tài chính nhằm đổi mới công nghệ
Hoàn thiện chính sách công nghệ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hướng:
Thứ nhất, nhà nước có chính sách cho phép khấu hao máy móc thiết bị nhanh hơn: Trong điều kiện sự phát triển của khoa học công nghệ diễn ra với tố độ cao như hiện nay, tuổi thọ của các sản phẩm khoa học công nghệ ngày càng được rút ngắn. Nếu như tuổi thọ trung bình của các sản phẩm vào đầu thế kỷ thứ XX là 20 năm thì đến giữa thế kỷ chỉ còn 10 năm và hiện nay chỉ còn vào khoảng 5-7năm thậm chí trong một số ngành điện tử, viễn thông thì tuổi thọ các sản phẩm chỉ còn lại khoảng 3-4 năm. Tình hình này đặt ra cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các quy mô vào tình thế chịu sức ép, căng thẳng của đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp tồn tại phát triển và cạnh tranh được phải gắn liền với đổi mới công nghệ.
Khi Việt Nam gia nhập tổ chức thuơng mại thế giới WTO các doanh nghiệp vừa và nhỏ không còn chịu sự bảo hộ của nhà nước. Vấn đề sống còn của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Trong khi đó, công nghệ của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất thấp kém và lạc hậu, tố độ đổi mới công nghệ là rất chậm. Vì vậy, việc khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới công nghệ, đầu tư máy móc thiết bị nên cho phép các doanh nghiệp khấu hao nhanh hơn. Ví dụ, các máy móc thiết bị của Việt Nam hiện nay thường có tuổi sử dụng là 10 năm, với mức khấu hao sử dụng hiện nay là 10% sử dụng lâu hơn so với tuổi thọ của sản phẩm từ 4-5 năm. Các doanh nghiệp nên tiến hành khấu hao sản phẩm nhanh hơn. Ví dụ, có thể để mức khấu hao sản phẩm, máy móc, thiết bị là khấu hao nhanh, khấu hao lũy tiến, với mức từ 20-25%/năm. Việc tăng tốc độ khấu hao sẽ cho phép doanh nghiệp giảm được mức thu nhập tính thuế, để từ đó có điều kiện đầu tư đổi mới máy móc, trang thiết bị để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo kinh nghiệm của các nước trước đây là một chính sách thuế ưu đãi thuế mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, thành công nhất, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Thứ hai, Tiếp tục cải cách hành chính để hỗ trợ chuyển giao công nghệ của Việt Nam. Để tạo điều kiện các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với công nghệ thế giới. Nhà nước cần cải cách các thủ tục hành chính theo hướng tạo điều kiện thuận lợi để chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Chính Sách Hỗ Trợ Tài Chính Cho Các Dnvvn Nhằm Đổi Mới Công Nghệ
- Cho Thuê Tài Chính (Leasing) Tại Việt Nam
- Một Số Giải Pháp Hỗ Trợ Tài Chính Cho Dnvvn Tại Việt Nam
- Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh nghiệm trên thế giới và bài học cho Việt Nam - 12
- Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh nghiệm trên thế giới và bài học cho Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
Sửa đổi các văn bản pháp luật với những quy định bắt buộc về chuyển giao công nghệ cũng như tạo điều kiện thuận lợi các cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và những người quản lý kinh doanh vào Việt Nam để chuyển giao công nghệ kỹ thuật và nghệ thuật quản lý kinh doanh. Có chính sách giảm thuế thu nhập cá nhân để khuyến khích các chuyên gia nước ngoài cư trú và làm việc tại Việt Nam, bởi vì họ có vai trò quan trọng trong hướng dẫn chuyển giao công nghệ cho các chuyên gia và cac công nhân phía Việt Nam.
Giảm mạnh hơn nữa các chi phí hạ tầng liên quan phục vụ cho hoạt động kinh doanh như chi phí điện thoại viễn thông quốc tế, chi phí sử dụng Internet,… đây cũng là một trong những yếu tố để các nhà đầu tư xem xét có đầu tư vào Việt Nam hay
không.
Lập quỹ nhằm trợ giúp DNVVN hoạt động trong lĩnh vực KH&CN, hoạt động trong lĩnh vực này có độ rủi ro khá cao. Dùng quý đó đào tạo nguồn nhân lực, giúp tìm hiểu đầu ra sản phẩm cho các DNVVN.
3. Nhóm giải pháp liên quan đến chính sách tín dụng
Để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được nguồn vốn của các tổ chức tín dụng. Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Mở rộng cửa cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với nguồn vốn tín dụng như: Qũy cho vay giải quyết việc làm, Qũy xóa đói giảm nghèo, Qũy hỗ trợ đầu tư quốc gia, tiến tới thành lập quỹ quốc gia về phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính xác hóa, kiểm tra các báo cáo kế toán tài chính để kiểm tra chính xác tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đảm bảo độ tin cậy để ngân hàng làm căn cứ cho vay.
Triển khai và thực hiện có hiệu quả quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quyết định số 193/2001/QD-TTg ngày 20/12/2001 cuả Thủ tướng Chính phủ về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng và thông tư hướng dẫn số 42/2002/TT-BTC ngày 7/5/2002 của Bộ tài chính.
Qũy bảo lãnh tín dụng được hình thành với mục đích cấp bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là biện pháp nhà nước san sẻ rủi ro với các tổ chức tín dụng nhằm mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời giúp các doanh nghiệp này vay được vốn tín dụng khi không đủ tài chính thế chấp. Việc ra đời quỹ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một biện pháp hỗ trợ rất thiết thực của Chính phủ. Nhưng để quỹ này hoạt động một cách có hiệu quả, các bộ ngành liên quan nên có những hướng dẫn chi tiết về cách góp vốn, mức góp vốn, vấn đề thẩm định quỹ cũng như tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với nguồn quỹ này.
Nhà nước nên cải cách chính sách theo hướng:
Nhà nước cần bãi bỏ quy định lãi suất trần, mức lãi suất để cho ngân hàng quyết định trên điều kiện cụ thể của thị trường.
Xóa bỏ các quy định mang tính phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong lĩnh vực tín dụng.
Nhà nước để cho các ngân hàng tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của họ, do đó các ngân hàng tự đưa ra quy định về đảm bảo tiền gửi phù hợp, các quy định về bán, cầm cố thế chấp tài sản.
Hạn chế tối đa sự can thiệp của nhà nước, các cấp chính quyền vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng, cho phép các ngân hàng nước ngoài mở rộng hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam.
Nhà nước kiểm soát hoạt động của ngân hàng thông qua các hiệp hội, thông qua việc áp dụng hệ thống tài chính: áp dụng các nguyên tắc, chuẩn mực về kiểm toán quốc tế, tăng cường hiệu lực hoạt động kiểm toán, khuyến khích phát triển các dịch vụ bảo hiểm, hạn chế hình sự hóa các quan hệ dân sự trong lĩnh vực tín dụng.
Về phía Ngân hàng
Cần chủ động tích cực tham mưu, tư vấn cho chính phủ sớm thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ: Quỹ này đã hoạt động thí điểm ở Bắc Giang và đã đem lại nhiều kết quả tốt.
Quỹ bảo lãnh tín dụng có vai trò là một tổ chức trung gian giữa ngân hàng và Doanh nghiệp, hoạt động trên cơ sở bảo lãnh một phần nhằm hỗ trợ các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được các khoản vay ngắn, trung và dài hạn (bao gồm cả gốc lẫn lãi) tại các tổ chức tín dụng, thông qua việc cấp bảo lãnh tái bảo lãnh tín dụng, khuyến khích các hoạt động tín dụng lành mạnh; Đồng thời chia xẻ rủi ro giữa quỹ bảo lãnh tín dụng, ngân hàng và Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như vậy các Doanh
nghiệp, quỹ, ngân hàng, cả ba phải làm đúng chức năng và thiện chí thì quy trình tạo vốn cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ mới sớm được khai thông một cách tích cực.
Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế đầu tư cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và
nhỏ:
Thứ nhất về các điều kiện vay vốn: Đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện
nay như phân tích ở trên là còn nhiều bất cập về điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành bao gồm: tài sản thế chấp; phương án sản xuất kinh doanh về chấp hành chế độ kế toán thống kê...
Trong đó đáng quan tâm là điều kiện về tài sản thế chấp để được vay vốn. Đây là vấn đề nan giải với các Doanh nghiệp và nhỏ, trong điều kiện tài sản thế chấp ít ỏi. Thực tế và lý luận đã chứng minh rằng: điều kiện quan trọng nhất để đảm bảo an toàn đồng vốn cho vay không phải là tài sản thế chấp mà là tính khả thi của phương án kinh doanh, dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó cho phép chúng ta có thể tìm giải pháp khắc phục tình trạng thiếu tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng từ việc nâng cao năng lực thẩm định dự án, phương án vay vốn của các ngân hàng. Có thể phân định một số dạng cụ thể như sau:
Đối với các Doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp cho phần còn lại thì yêu cầu Doanh nghiệp thực hiện đảm bảo nợ đủ theo yêu cầu.
Đối với Doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho phần còn lại thì yêu cầu dùng tài sản hình thành bằng vốn vay, tiếp tục đảm bảo cho nợ vay còn lại.
Đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ không đáp ứng đủ điều kiện như hai dạng trên thì ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn bằng cách thông qua hội đồng tín dụng. Trong đó các chuyên gia tư vấn theo chuyên môn yêu cầu, để quyết định nên đầu tư hay không và mức độ đầu tư là bao nhiêu.
Như vậy đòi hỏi đôi ngũ cán bộ thẩm định không chỉ tinh thông về nghiệp vụ chuyên môn mà còn phải hiểu biết rộng rãi các nghiệp vụ bổ trợ như chuyên môn các ngành kỹ thuật và các ngành kinh tế khác. Đồng thời cần nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác về các phương án, dự án vay vốn.
Thứ hai về thời hạn cho vay: Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu về vốn trung và dài hạn lớn do phải thay đổi công nghệ, thiết bị nhiều do đó các ngân hàng cần lưu ý trong việc xác định thời hạn cho vao phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ của thiết bị. Các ngân hàng không nên gò ép về mặt thời gian cho vay theo chủ quan sẽ dẫn đến áp lực về tài chính đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ
4. Cho thuê tài chính
Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới với việc gia nhập WTO. Trong quá trình đó, thị trường Việt Nam là một bộ phận của thị trường quốc tế, trong đó có thị trường tài chính. Việc đón bắt cơ hội, vượt qua thách thức là một yêu cầu lớn đối với nền kinh tế, trong đó đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện các loại thị trường. Hơn nữa, chỉ trong một thời gian ngắn sau khi gia nhập WTO, việc thị trường tài chính, ngân hàng của Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các dịch vụ tài chính, ngân hàng, trong đó có dịch vụ cho thuê tài chính từ nước ngoài là một tất yếu. Do đó, để hoàn thiện và phát triển loại hình dịch vụ đầy tiềm năng phát triển này trong thời gian tới chúng ta cần một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động liên quan đến dịch vụ cho thuê tài chính trong Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Chỉ có một hệ thống pháp luật đồng bộ mới giúp hoạt động cho thuê tài chính đi vào nề nếp, có định hướng. Điều đó cũng sẽ góp phần giúp cho chủ sở hữu, các công ty cho thuê tài chính và các doanh nghiệp thuê tài chính tuân thủ pháp luật, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền và lợi ích được pháp luật ghi nhận, bảo
vệ. Một số bất cập của pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính như mở rộng đối tợng cấp dịch vụ, xoá bỏ giới hạn chỉ cho các tổ chức phi ngân hàng tham gia (theo quy định tại Nghị định số 16/2001/NĐ-CP); đối tượng tài sản để cho thuê tài chính theo quy định của pháp luật Việt Nam chỉ là các động sản; các quy định về phương thức xử lý, quản lý, sử dụng, trích khấu hao tài sản thuê tài chính cũng cần phải được sửa đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế...
Trước mắt Nhà nước có thể giảm vốn pháp định khi thành lập công ty cho thuê tài chính (hiện tại là 50 tỷ đồng) hoặc thí điểm cho các ngân hàng được trực tiếp tài trợ tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp dưới hình thức cho thuê tài chính mà không cần phải thành lập công ty cho thuê tài chính. Làm được điều này, các ngân hàng và nhất là các NHTMCP sẽ tiếp cận được nhiều hơn số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngân hàng sẽ đa dạng hoá hơn đối tượng cho vay, ngành cho vay, phân tán được những rủi ro tín dụng tại các NHTMQD, riêng NHTMCP có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng thông qua thẩm định dự án đầu tư, phân tích tài chính doanh nghiệp, thẩm định tình hình thị trường, giải quyết vốn đầu ra hiệu quả, linh hoạt hơn trong việc cấp tín dụng mà vẫn đảm bảo an toàn vốn; ngược lại các doanh nghiệp sẽ thuận tiện hơn khi tiếp cận sự nguồn vốn từ ngân hàng mà không cần phải có tài sản bảo đảm. Nếu giải pháp này thành hiện thực, ngân hàng nói chung và NH TMCP nói riêng có thêm phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục tiêu kinh doanh đạt lợi nhuận và an toàn, từng bước phát triển thành ngân hàng thương mại hiện đại, kinh doanh đạt hiệu quả, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế thông qua sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, Nhà nước, các hiệp hội và chính các Công ty cho thuê tài chính cần phải quảng bá rộng rãi hơn nữa dịch vụ cho thuê tài chính của mình đến cộng đồng doanh nghiệp thông qua các phương tiện truyền thông, các hội nghị, hội thảo chuyên
đề... Nội dung, quy trình cho thuê tài chính phải được phổ biến hết sức dễ hiểu, đơn giản, toát lên ý nghĩa, lợi ích và mục đích mà doanh nghiệp hướng tới đối với loại hình cho thuê tài chính này.
Thứ ba, bằng các biện pháp khác nhau, các công ty cho thuê tài chính phải giảm cho được các chi phí làm tăng giá thuê. Bởi vì, chỉ có giảm giá thuê thì dịch vụ cho thuê tài chính mới hấp dẫn được doanh nghiệp
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp luôn có xu hướng đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu cho nguồn nhân lực, thiết bị, máy móc, đầu tư công nghệ, đầu tư quản trị... nhng vốn tự có của doanh nghiệp thường bị hạn chế và không phải bao giờ cũng sẵn. Ngoài các kênh cấp vốn phổ biến từ ngân hàng, thì kênh cấp vốn từ dịch vụ cho thuê tài chính có xu hướng phát triển và ngày chiếm vị trí quan trọng trên thị trường tài chính thế giới. Việc phát triển nền kinh tế ở tốc độ cao đã làm xuất hiện nhu cầu vốn lớn cho đầu tư, đồng thời các loại thị trường cũng có cơ hội được mở rộng, thị trường dịch vụ cho thuê tài chính cũng vậy. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập này, thị trường Việt Nam là một bộ phận của thị trường thế giới, do đó, khi mà thị trường dịch vụ cho thuê tài chính thế giới phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của thị trường dịch vụ này ở Việt Nam trong tương lai không xa.
Hình thức tín dụng thuê mua có ưu điểm rất cơ bản là nó giúp cho Doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích. Do đặc điểm của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ là trình độ công nghệ lạc hậu, và tay nghề công nhân nhìn chung là không cao do vậy thêm vào đó là không có đủ vốn để mua các trang thiết bị sản xuất. Khi Doanh nghiệp vừa và nhỏ ký hợp đồng thuê mua các công ty tài chính, Doanh nghiệp không chỉ nhận được máy móc thiết bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết. Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có thể tránh được những tổn thất do mua máy thiết bị không đúng yêu cầu, không kiểm tra kỹ hoặc do mua nhầm (mua