Hiệu Lực Của Thỏa Thuận Về Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Thời Kỳ Trước Luật Hn&gđ Năm 2014

Kết luận chương 1

Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận về hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có thể rút ra một số kết luận như sau:

1. Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng có hai loại là chế độ tài sản pháp định (theo quy định của pháp luật) và chế độ tài sản ước định (theo thỏa thuận của vợ chồng).

2. Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng là giá trị pháp lý của thỏa thuận làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của hai bên vợ chồng và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia thỏa thuận phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó.

3. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định không giống nhau ở các nước trên thế giới tùy theo quan niệm lập pháp và thể chế chính trị của các quốc gia.

Chương 2.

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HIỆU LỰC CỦA THỎA THUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

2.1. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thời kỳ trước Luật HN&GĐ năm 2014

Luật tục Việt Nam không biết đến hôn ước như một hợp đồng thỏa thuận về vấn đề tài sản giữa vợ chồng để chi phối trong thời kỳ hôn nhân. Trong xã hội phong kiến Việt Nam, Khổng giáo và Nho giáo chi phối các quan hệ HN&GĐ về quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha mẹ và các con. Theo quan niệm truyền thống của người phương Đông hôn nhân được tác thành xuất phát từ lợi ích của gia đình, để xây dựng gia đình sinh con để nối dõi tông đường, thờ phụng tổ tiên, vợ phải tuyệt đối trung thành với chồng, phụng sự tuyệt đối gia đình nhà chồng; vợ chồng khi có con chung, với tư cách là cha, mẹ, họ cùng chung sức, chung ý chí để tạo dựng tài sản nhằm vào mục đích là nuôi dưỡng, giáo dục các con, vì lợi ích của các con, toàn bộ tài sản mà vợ chồng tạo dựng được hợp nhất thành một khối để cho gia đình sử dụng vào việc nuôi dưỡng các con, để lại cho các con khi cha, mẹ chết. Người chồng được coi là trụ cột của gia đình, là người chủ gia đình, đại diện cho quyền lợi của gia đình, là chủ sở hữu các tài sản trong gia đình, định đoạt tài sản vì quyền lợi của gia đình, vì thế, không cần thiết phải dự liệu về vấn đề tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Do đó, yếu tố tình cảm, với những lợi ích về tinh thần được coi trọng hơn là các yếu tố tài sản và không dự liệu cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, từng miền thực dân Pháp ban hành và áp dụng các bộ luật riêng, cụ thể: Ở Bắc Kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 (DLBK), ở Trung Kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 (DLTK) và ở Nam Kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (DLGYNK). Tại Nam kỳ, Tập Dân luật giản yếu không quy định chế độ tài sản của vợ chồng Tại Bắc và Trung Kỳ, ảnh hưởng của BLDS Pháp (1804) pháp luật dự liệu chế độ tài sản ước định, áp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

dụng nguyên tắc của chế độ tài sản của vợ chồng theo hôn ước. Theo đó, pháp luật quy định: “Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến đoàn thể vợ chồng là khi nào vợ chồng không có tùy ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng ấy không được trái với phong tục và không được trái với quyền lợi người chồng là người chủ trương trong đoàn thể”; hay “phàm tư ước về tài sản của vợ chồng khi đã làm giá thú thì không được thay đổi gì nữa”. Với quy định chế độ tài sản ước định này lần đầu tiên được dự liệu trong hệ thống pháp luật Việt Nam không phù hợp với tục lệ và truyền thống của gia đình người Việt Nam; nên mặc dù hai bộ DLBK và DLTK có quy định nhưng các cặp vợ chồng thường không thỏa thuận lựa chọn loại chế độ tài sản ước định.

Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận lập hôn ước khi kết hôn thì, DLBK và DLTK quy định chế độ tài sản pháp định để áp dụng cho vợ chồng không lập hôn ước là chế độ cộng đồng toàn sản. Trên cơ sở phong tục, tập quán của người Việt, mọi tài sản trong gia đình đều là tài sản chung và đều để dành cho các con cháu. Các bộ luật DLBK và DLTK đã ghi nhận trong chế độ tài sản pháp định của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản; cụ thể: tất cả tài sản và hoa lợi của vợ, chồng hợp thành khối tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật quy định: “Nếu hai vợ chồng không có tư ước với nhau thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và của vợ hợp làm một mà chung nhau”. Dù cho vợ hoặc chồng có thể có tài sản riêng từ trước khi kết hôn, nhưng kể từ khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân thì tất cả tài sản riêng đó (động sản và bất động sản) được hợp nhất thành khối tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, các tài sản đó chỉ là sự hợp nhất tạm thời trong thời kỳ hôn nhân; còn những tài sản do hai vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mới là tài sản chung chính thức. Khi hôn nhân chấm dứt thì các tài sản riêng của vợ, chồng đã được hợp nhất tạm thời vào khối tài sản chung của vợ chồng lại được tách ra để chia theo nguyên tắc tài sản riêng của bên nào thì bên đó có quyền lấy lại, còn đối với tài sản chung sẽ được chia đôi cho vợ và chồng.

Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 5

2.1.1. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật miền Nam trước năm 1975

Dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn trước năm 1975, pháp luật HN&GĐ được ban hành và áp dụng các văn bản pháp luật: Luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm, Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 dưới chế độ Nguyễn Khánh và BLDS ngày 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Các văn bản luật này đều quy định chế độ tài sản ước định. Theo đó, vợ chồng ký kết với nhau một hôn ước thỏa thuận về vấn đề tài sản từ trước khi kết hôn, sự thỏa thuận bằng hôn ước đó không trái với trật tự công cộng, thuần phong mỹ tục và quyền lợi của con1. Trong trường hợp vợ chồng không lập hôn ước với nhau về tài sản thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định). Theo Luật Gia đình thì chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định cũng là chế độ cộng đồng toàn sản. Còn trường hợp vợ chồng không lập hôn ước để thỏa thuận về vấn đề tài sản của họ thì Sắc luật số 15/64 và BLDS áp dụng chế độ cộng đồng động sản và tạo sản.

2.1.2. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Luật HN&GĐ năm 2000

Theo Luật HN&GĐ năm 1959 của Nhà nước ta không quy định chế độ tài sản ước định. Theo đó, pháp luật quy định: “Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Với quy định này thể hiện chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản. Có nghĩa là toàn bộ các tài sản của vợ chồng có trước khi kết hôn hoặc được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; vợ, chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hoặc cả hai vợ chồng được tặng cho chung hay được thừa kế chung, không phân biệt nguồn gốc tài sản và công sức đóng góp, đều thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng. Luật không thừa nhận vợ, chồng có tài sản riêng. Vợ,


1

Điều 45 Luật Gia đình; Điều 49 Sắc luật số 15/64 và Điều 144, 145 BLDS năm 1972.

chồng có quyền bình đẳng ngang nhau khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung và luôn có kỷ phần bằng nhau trong khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất đó. Luật HN&GĐ năm 1959 còn quy định trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng là khi vợ, chồng chết trước và khi vợ chồng ly hôn2. Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất.

Tiếp đến, Luật HN&GĐ năm 1986 cũng không ghi nhận chế độ tài sản ước định mà chỉ quy định chế độ cộng đồng tài sản pháp định áp dụng cho các cặp vợ chồng3. Chế độ cộng đồng tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1986 quy định là chế độ cộng đồng tạo sản; cụ thể tài sản chung của vợ chồng bao gồm: “Các tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, các thu nhập hợp pháp mang lại từ kinh tế gia đình; các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng các khoản thu nhập nói trên); các tài sản do vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung4. Bên cạnh khối tài sản chung của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1986 đã ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng bao gồm: “Các tài sản mà vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn; các tài sản mà vợ hoặc chồng được tặng cho riêng hay được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân.Người vợ, chồng có tài sản riêng có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”5. Luật HN&GĐ năm 1986 còn quy định bảo đảm quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung như: Quy định rõ mục đích sử dụng tài sản chung của vợ chồng nhằm bảo đảm những nhu cầu chung của gia đình; vợ,


2

Điều 16 và Điều 29 Luật HNGĐ năm 1959.

3

Điều 14, 15, 16, 17, 18 và 42 Luật HNGĐ năm 1986.

4

Điều 14 Luật HNGĐ năm 1986.

5

Điều 16 Luật HNGĐ năm 1986.

chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua, bán, đổi, cho, vay, mượn và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thỏa thuận của hai vợ chồng6.

Tương tự Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 cũng không quy định chế độ tài sản ước định giữa vợ chồng vì nhà làm luật cho rằng chế độ tài sản này không phù hợp với tập quán, truyền thống của gia đình người Việt. Chế độ cộng đồng tài sản pháp định mà Luật HN&GĐ năm 2000 quy định là chế độ cộng đồng tạo sản. Luật HN&GĐ năm 2000 tiếp tục quy định về phạm vi thành phần khối tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp chia tài sản chung và hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng.

Như vậy, Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000 chỉ quy định về một chế độ tài sản pháp định; do đó, mọi thỏa thuận của vợ chồng trái với các quy định của chế độ hôn nhân pháp định bị tuyên bố là vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra. Song trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân pháp luật quy định:“Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận”. Đồng thời, luật còn quy định: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”7.


6

Điều 15 Luật HNGĐ năm 1986.


7

Điều 29, 30 Luật HNGĐ năm 2000.

Ngoài ra, pháp luật còn có hướng dẫn cụ thể: “Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực. Trong trường hợp Toà án cho chia tài sản chung theo quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị định này, thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày quyết định cho chia tài sản chung của Toà án có hiệu lực pháp luật”.“Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ, chồng. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”8. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định về “khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng” đòi hỏi vợ chồng đã chia tài sản chung mà sau đó muốn khôi phục lại chế độ tài sản chung thì phải lập thành văn bản có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực9. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là chia một phần hoặc chia toàn bộ tài sản. Các nhà khoa học pháp lý cho rằng quy định này là ý tưởng về quan hệ tài sản giữa vợ



8

năm 2000.

9


Điều 8, 9 Nghị định số 70 của Chính phủ ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật HNGĐ

Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 70 của Chính phủ ngày 03/10/2001.

và chồng theo thỏa thuận, là một bước đệm quan trọng cho việc thiết lập những quy định về hôn ước trong Luật HN&GĐ tương lai.

2.2. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ trong theo Luật HN&GĐ năm 2014

2.2.1. Việc công nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận

Quá trình thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 đã gặp không ít những khó khăn,vướng mắc phát sinh khi thực hiện các giao dịch liên quan tới tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng như: căn cứ cụ thể để xác định một tài sản là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng; việc xác định tư cách đại diện của một bên vợ, chồng khi tham gia giao kết các hợp đồng, giao dịch có liên quan đến tài sản chung của vợ, chồng… Điều này khiến cho các bên trong giao dịch có thể gặp rủi ro như hợp đồng, giao dịch bị Tòa án tuyên vô hiệu hoặc các giao dịch bảo đảm liên quan đến tài sản vợ chồng bị Tòa án tuyên vô hiệu dẫn đến nhứng hậu quả pháp lý khó lường. Đồng thời, quan hệ kinh tế đòi hỏi vợ, chồng phải có những quyết định nhanh, dứt khoát về tài sản, họ phải chủ động về tài sản. Nếu vợ, chồng thực hiện đúng theo quy định pháp luật, trong nhiều trường hợp, họ sẽ bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh. Thừa nhận chế độ hôn sản ước định, đối với những cặp vợ, chồng làm nghề kinh doanh thường muốn có một chế độ tách riêng tài sản. Chế độ đó vừa tạo điều kiện cho họ chủ động trong hoạt động kinh doanh, vừa tránh được những rủi ro có thể xảy đến cho cuộc sống gia đình.

Vấn đề đặt ra từ thực tiễn nêu trên, Luật HN&GĐ năm 2014 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 19/6/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về chế độ tài sản vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 2000, trong đó có quy định mới về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận; nhằm góp phần minh bạch hóa tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong các giao dịch liên quan đến tài sản vợ chồng, đảm bảo lợi ích của các bên tham gia giao dịch.

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 14/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí