Câu Chuyện Về Nàng Liệt Nữ Mỵ Ê Và Thực Tế Lịch Sử

CHƯƠNG 3

NHÂN VẬT LIỆT NỮ

(Qua trường hợp nhân vật Mỵ Ê trong Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên)


Ở chương 2 chúng tôi đã khảo sát hệ thống nhân vật trong văn học giai đoạn X-XV từ góc nhìn về mẫu người tôn giáo. Chương 3 này chúng tôi sẽ đi vào khảo sát nhân vật từ quan điểm văn hoá giới qua mẫu hình liệt nữ- Mỵ Ê trong Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên.

Xét văn hóa phương Đông thời trung đại từ góc nhìn văn hóa ứng xử nam giới/nữ giới, có thể nói đây là nền văn hóa nam quyền. Trong nền văn hóa này, quyền lực thống trị thuộc về người đàn ông, còn người phụ nữ chịu sự thống trị áp đặt của nam giới. Tình trạng bất bình đẳng giới đó lại được tăng cường thêm trong một xã hội Nho giáo hóa như xã hội Việt Nam bắt đầu từ thời Lí - Trần và được đẩy mạnh trong thế kỷ XV. Phân tích hình tượng nhân vật Mỵ Ê trong chương này có nhiệm vụ làm rõ mục đích và phương thức diễn ngôn của văn học trung đại dân tộc đang Nho giáo hóa ở năm thế kỉ đầu tiên về người phụ nữ và nhất là ảnh hưởng lâu dài của phương thức diễn ngôn này đến cảm hứng của văn học Việt Nam cho mãi đến tận đầu thế kỷ XX về mẫu hình phụ nữ lí tưởng. Tuy dung lượng văn bản của tác phẩm viết về nhân vật Mỵ Ê (Việt điện u linh) mà chúng tôi khảo sát không lớn nhưng tầm quan trọng của định hướng diễn ngôn về mẫu người phụ nữ lí tưởng theo chuẩn mực Nho giáo của văn bản này là rất đáng chú ý.

Trong xã hội nam quyền luôn tồn tại thiết chế song song đồng hành cùng với chế độ phong kiến, phục vụ cho trật tự của xã hội phong kiến. Đó là nơi tồn tại tình trạng bất bình đẳng nam nữ, nơi nam giới thống trị phụ nữ. Tam cương của Nho giáo cho thấy mục đích của Nho giáo là nhằm xây dựng trật tự đạo đức. Vua là giường mối của bề tôi, cha là giường mối của con, chồng là giường mối của vợ. Tam cương thiết lập chế độ áp chế, thủ tiêu cái tôi con người bằng đạo trung, hiếu, tiết trinh. Chế độ nam quyền tồn tại kéo dài mãi đến ngày nay vẫn còn ít nhiều rơi rớt. Nói riêng về quan hệ giới tính nam/nữ, chủ trương trinh tiết là một chủ trương bất bình đẳng của Nho giáo (Tính chất bất bình đẳng thể hiện trong nhiều địa hạt song tiêu biểu nhất, rõ rệt nhất là ở quan niệm trinh tiết mà văn hóa Nho giáo áp đặt cho phụ nữ). Nhưng trong văn hóa trinh tiết thì việc xây dựng và đề cao mẫu người liệt nữ như là mẫu hình phụ nữ trinh tiết lại là biểu hiện bất bình đẳng đậm nét nhất, tiêu biểu nhất cho văn hóa nam quyền. Người liệt nữ trước hết là người phụ nữ trinh tiết, nhưng khác người phụ nữ bình thường ở chỗ khi đứng trước

những thử thách nghiệt ngã đối với phẩm tiết, dám lấy cái chết hay ít nhất cũng là tự sát thương, hủy hoại thân thể. Trong khi đó người đàn ông, kẻ gây ra cái chết của người liệt nữ lại vẫn vô can. Như vậy chính chủ trương trinh tiết bất bình đẳng của Nho giáo đã đẻ ra khái niệm người liệt nữ, người phụ nữ hy sinh hay tự sát thương mình để bảo toàn trinh tiết với người chồng trong khi người chồng có quyền lấy nhiều vợ (chế độ đa thê). Nhưng trong sử sách và trong văn học, những biểu hiện của xã hội nam quyền, thể hiện tư tưởng áp chế phụ nữ, vấn đề trinh tiết áp đặt cho phụ nữ bắt đầu từ khi nào, bộc lộ ra sao lại chưa được nghiên cứu kĩ. Những nghiên cứu gần đây có ít nhiều mô tả người liệt nữ ở các giai đoạn cuối thời trung đại chứ ở giai đoạn đầu, chưa có sự chú ý đúng mức. Đó là lý do chúng tôi nghiên cứu nhân vật liệt nữ Mỵ Ê, được coi là dấu hiệu sớm nhất của người liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại. Nghiên cứu cố gắng giải mã vấn đề vì sao nhà nước phong kiến lại quyết định chọn một phụ nữ ngoại tộc, với nền văn hóa khác biệt (bị cho là man di) để mở đầu cho sự tuyên truyền thực chất là đạo đức khắc kỉ của người phụ nữ, phục vụ cho trật tự nam quyền, lợi ích nam giới. Sau đó là theo dõi hình tượng Mỵ Ê tồn tại và tiếp nối trong suốt thời trung đại thế nào?

Khi viết VĐUL, xuất phát từ chủ đích đề cao dân tộc và đạo đức Nho giáo, Lí Tế Xuyên trình bầy nhiều mẫu người với quan niệm sống thật mãnh liệt. Mỗi người có một cách sống riêng, một sự lựa chọn riêng tùy theo hoàn cảnh của họ nhưng lúc nào cũng đặt giá trị tinh thần lên trên hết. Trong số các nhân vật của VĐUL, nàng Mỵ Ê có một vị trí thật đặc biệt. Vốn là người Chăm Pa (Chiêm Thành), người phụ nữ ngoại tộc này đã bước vào điện thờ văn hóa người Việt Nam đang trong quá trình xây dựng quốc gia dân tộc. Chỉ riêng chi tiết này cũng đủ hấp dẫn người hiện đại suy tư, nghiền ngẫm. Vì vậy, việc khảo sát nhân vật liệt nữ Mỵ Ê, điểm nhìn của người viết về nhân vật này, cũng như sức sống của mẫu hình phụ nữ này trong văn hóa và văn học Việt Nam trung đại, cận đại có ý nghĩa không nhỏ đối với việc nhận diện vai trò kiến tạo văn học trung đại. Phân tích hình tượng Mỵ Ê-một kiểu liệt nữ trong văn học trung đại từ quan điểm văn hoá giới chúng tôi tiến hành xem xét trên hai phương diện cơ bản là nội dung và nghệ thuật. Đối với phần nội dung, Luận án sẽ đi vào tái hiện lại sự tích về Mỵ Ê qua hai tác phẩm thuộc thế kỉ XIV là VĐUL Lĩnh Nam chích quái, đồng thời cũng tìm hiểu những ghi chép của chính sử về người liệt nữ qua Đại Việt sử kí toàn thư. (Đại Việt sử ký toàn thư cũng được viết trên lập trường quan điểm của Nho giáo). Đối với nghệ thuật thể hiện nhân vật Luận án sẽ đi vào phân tích những yếu tố khắc hoạ nhân vật như ngoại hình, tâm lí, cách ứng xử- hành động; ngôn ngữ; số phận và sự tiếp nối cảm hứng.

3.1. Câu chuyện về nàng liệt nữ Mỵ Ê và thực tế lịch sử

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.

3.1.1. Khảo sát sự tích về Mỵ Ê

Câu chuyện về nàng Mỵ Ê xuất hiện ở hai tác phẩm văn xuôi thế kỉ XIV là Việt điện u linh (VĐUL) và Lĩnh Nam chích quái - một tác phẩm ra đời nửa đầu thế kỉ XIV, một tác phẩm ra đời vào cuối thế kỉ XIV- đây là lúc Nho giáo đã có địa vị văn học tư tưởng quan trọng vượt Phật giáo. Tuy cách kể lại sự tích Mỵ Ê trong hai sách có những điểm khác nhau, chẳng hạn, VĐUL miêu thuật chi tiết hơn đoạn đầu tức đoạn Mỵ Ê bị bắt rồi bị vua ép ―hợp hoan‖, sau đó nàng tự trầm, trước khi tự trầm nàng cũng ―nói lên‖ quan điểm của mình nhưng điểm nhìn trần thuật và kiểu tác giả, mục đích viết thì đều giống nhau: điểm nhìn và kiểu tác giả đều là nam giới, là nhà nho còn mục đích là để ca ngợi, tôn vinh tiết hạnh, cách hành xử của Mỵ Ê, mượn chuyện Mỵ Ê để giáo dục đạo đức theo mẫu hình đạo đức Nho giáo đầy sắc thái nam quyền cho người phụ nữ Việt Nam khi đó. Câu chuyện Mỵ Ê nhìn chung có thể tóm tắt ngắn gọn thế này: năm Thiên cảm Thánh Vũ thứ nhất (1044) Lí Thái Tông đi đánh Chiêm, chém được vua Sạ Đẩu, tiến vào Phật Thệ, bắt thê thiếp Sạ Đẩu đem về. Khi về đến hành diện Lí Nhân (Hà Nam) nhà vua sai triệu Mỵ Ê đến hầu thuyền ngự. Mỵ Ê lấy làm đau khổ, tủi nhục, liền quấn chăn vào mình nhảy xuống sông tự vẫn, nhà vua khen là trinh tiết phong là Hiệp chính hựu thiện phu nhân. Điều đặc biệt là sau khi mất Mỵ Ê còn linh ứng hiện về báo mộng với vua Lí.

Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV - 12

Câu chuyện kể về Mỵ Ê có hai chi tiết khiến chúng ta chú ý: 1) quấn chăn nhảy sông-tại sao lại quấn chăn ? chi tiết này theo chúng tôi có các khả năng sau: có thể ám chỉ Mỵ Ê lõa thể trước khi quấn chăn –phải chăng có ý nói Mỵ Ê bị đẩy đến tình thế phải quan hệ với vua nên đã quấn chăn nhảy sông. Một phản ứng mang tinh thần liệt nữ điển hình?; hoặc có thể xuất phát từ một nét văn hóa trong phong tục Chăm. Sự kiện bắt thê thiếp Xạ Đẩu đem về cho thấy trong số cung nữ triều Lý đã có cả cung nữ-tù binh –chiến lợi phẩm. Mỵ Ê được gọi lên hầu thuyền ngự ở giữa đường về lại là một chi tiết khác lạ, cho thấy có nhiều điều để có thể tưởng tượng về thời điểm ấy. Tuy nhiên theo phong tục dân tộc Chăm (kể cả vùng văn hóa ảnh hưởng -văn hóa Ấn Độ) thường có nghi lễ vợ tự người hỏa táng theo chồng. Có thể vì hỏa táng người sống nên người ta quấn chăn cho người ấy và Mỵ Ê tự thực hiện việc này cho mình rồi tự trầm chết theo chồng (khi quấn chăn vào người nhảy xuống nước sẽ dễ chìm, dễ chết hơn và nó thể hiện thái độ quyết chết của Mỵ Ê?). Như vậy, chết theo chồng hoặc bắt chết theo chồng có thể là phong tục của Chăm-pa nhưng đã được nhà nho Việt Nam lý giải theo ý đồ hay cách hiểu chủ quan của văn hóa nam quyền Nho

giáo? Theo một tư liệu gần đây nhất mà chúng tôi có được về thân phận những góa phụ ở Ấn Độ có lẽ cũng là một bằng chứng thuyết phục cho cách hiểu thứ hai (Xem phần Phụ lục 2): tư liệu cung cấp cho chúng ta biết được số phận những góa phụ truyền thống Ấn Độ (có thể Chiêm Thành chịu ảnh hưởng) rất phức tạp. Nếu chồng chết thì đằng nào họ cũng bị kì thị nên tốt hơn hết là chết theo. Có thể giả định phụ nữ Chăm trước đây cũng vậy? Chưa thể khẳng định chính xác nhưng là một gợi mở về các khả năng cắt nghĩa khác nhau cho thân phận người phụ nữ Chăm. Nhưng đến nhà nho Việt Nam ở thế kỷ XIV thì người ta quyết định vận dụng mẫu hình liệt nữ của văn hóa ảnh hưởng văn hóa Nho giáo để lí giải cái chết Mỵ Ê, thể hiện quá trình Nho giáo hóa quan niệm về người phụ nữ lí tưởng. 2) tại sao lại chép linh ứng sau khi chết ?: Theo quan niệm văn hóa Nho giáo, những người chết theo đạo nghĩa làm cảm động thiên địa, trở nên linh ứng-tất cả những nhân vật linh kiệt được chép trong Việt điện u linh đều như vậy cả. Nó được hiểu như một phần thưởng cho người sống có đạo (đạo Nho). Cả hai sách VĐUL, Lĩnh Nam chích quái đều thể hiện điều này bằng một đoạn ngôn ngữ đối thoại khá dài của Mỵ Ê. Đó là mô hình phát ngôn điển hình do nhà nho– người đàn ông đặt vào miệng người phụ nữ để phục vụ mục đích giáo huấn đạo đức trinh tiết cho phụ nữ. Nó còn thể hiện quan điểm văn hóa Hoa-Di của nhà nho Việt Nam: tôn vinh quốc vương Đại Việt, hạ thấp Sạ Đẩu (ngoại tộc bị nhà nho coi là man di). Như vậy các tác giả nhà nho nam giới đã đem quan điểm đạo đức Nho giáo và quan điểm dân tộc chủ nghĩa của nhà nho (coi Chiêm Thành là man di chống lại thiên triều) để áp đặt vào miệng của Mỵ Ê. Như vậy, khi nghiên cứu nhân vật liệt nữ Mỵ Ê là chúng tôi nghiên cứu xu thế các nhà nho sử dụng quan điểm liệt nữ để lý giải hành vi của một người phụ nữ ngoại tộc tức đã biến một người phụ nữ ngoại tộc thành một nhân vật liệt nữ như thế nào? Chứ ở đây không đơn thuần là nghiên cứu bản thân nhân vật và cái chết của nhân vật nữ ấy bởi Mỵ Ê là sản phẩm hư cấu của nhà nho, các nhà nho đã mượn câu chuyện Mỵ Ê để sáng tạo ra một mẫu hình liệt nữ theo quan điểm Nho giáo. Các truyện kể về Mỵ trong VĐUL hoặc Lĩnh Nam chích quái đều rất ngắn gọn nhưng nhân vật liệt nữ Mỵ Ê lại có một vận mệnh ảnh hưởng lâu dài, dai dẳng, thậm chí là nguồn cảm hứng cho các nhà nho ở đầu thế kỉ XX.

Để giúp cho việc nghiên cứu nhân vât liệt nữ Mỵ Ê được toàn diện và sâu sắc tác giả Luận án đã tuyển chọn hai văn bản về chuyện nàng Mỵ Ê trong VĐUL Lĩnh Nam chích quái (xin xem phần Phụ Lục 3). Đây cũng là điều thuận lợi cho những độc giả không chuyên sâu về văn học trung đại khi đọc Luận án.

3.1.2. Những ghi chép của chính sử về người liệt nữ

Theo quan niệm hiện đại, bản thân lịch sử quá khứ cũng là một loại văn bản đặc biệt mà sử gia chính là người đọc. Người đọc- sử gia này có thể quan tâm đến những sự kiện, nhân vật nào đó phù hợp với ―chân trời chờ đợi‖ của mình, có thể đưa ―chân trời chờ đợi‖ chủ quan của mình vào sự lý giải, cắt nghĩa hành động, sự kiện, nhân vật theo thiên kiến đó. Vì vậy, không nên ngây thơ cho rằng các bộ sử đã ghi chép lịch sử một cách khách quan và toàn diện. Lịch sử là điều mà người ta muốn nhớ và người ta muốn quên.

Với VĐUL-một tác phẩm văn học chức năng, Lý Tế Xuyên đã ghi chép biểu dương các nhân vật được triều Trần sắc phong thần, mà việc sắc phong thần là việc thể hiện quyền lực thống trị của triều đại-vua không chỉ cai quản thiên hạ mà còn giám quản bách thần; đồng thời phản ánh quan điểm đạo đức chính trị của triều đình đã lựa chọn đạo Nho làm quốc giáo. Các nhân vật được sắc phong thần đều đáp ứng những ―tiêu chuẩn‖ của triều đình thì mới được phong như: có công đánh giặc ngoại xâm, trung nghĩa, liệt nữ...Sự có mặt của họ trong tập sách còn là minh chứng cho tư tưởng Nhân kiệt địa linh- đất thiêng sinh ra hào kiệt. Tuyên dương họ tức là gián tiếp khích lệ những hành động, tư tưởng đạo đức ở người đời sau, như vậy rất có lợi cho các triều đại phong kiến. Họ được miêu tả từ điểm nhìn của đạo Nho. Nghệ thuật tự sự chịu sự chi phối của lối viết kỉ truyện thời cổ.

Với tác giả Đại Việt sử ký thì sao? Mục đích chép sử của các sử gia được thể hiện ngay ở phần đầu trong Biểu dâng sách của Ngô Sĩ Liên. Tác giả viết: ―Thần trộm nghĩ: ngày xưa, có sử làm tin, điển lớn của nước, để chép quốc thống lúc li lúc hợp, để tỏ trị hóa khi thịnh khi suy. Là muốn treo gương răn cho đời sau, há chỉ để tỏ cơ vi về dĩ vãng. Tất phải khen chê mọi điều hay dở, thì người đời sau mới biết khuyên răn‖ [75;tr.16]. Ngô Sĩ Liên vẫn theo quan điểm truyền thống về lịch sử của Nho gia như một quá trình thịnh suy, hưng vong, bĩ thái có tính chất chu kì của các triều đại trị vì và truy tìm nguyên nhân của sự thịnh suy ấy, nhằm rút ra những bài học đạo đức nhắn gửi cho những người làm chính trị đời sau. Quan điểm này từng nhấn mạnh trong một số tác phẩm về lịch sử Trung Quốc như Kinh Xuân Thu của Khổng Tử, Sử kí của Tư Mã Thiên, Tư trị thông giám của Tư Mã Quang, Thông giám cương mục của Chu Hi…Các nhà sử học Việt Nam thời trung đại đã chịu ảnh hưởng tư tưởng sử học của các Nho gia Trung Quốc là điều khá rõ. Mục đích chép sử như trên qui định kết cấu và nội dung bộ sử. Trục chính của bộ sử xoay quanh các triều đại, các sự kiện lịch sử chủ yếu là các sự kiện có liên quan đến đời sống cung đình

được kể theo nguyên tắc biên niên, có đối chiếu với lịch sử biên niên các triều đại của Trung Quốc. Các nhân vật lịch sử thường là các bậc vua chúa, quan lại, các bậc danh nho, trung thần, các anh hùng, thế gia, võ tướng hay các gian thần…Họ được kể lại qua sự tái hiện lời nói, việc làm, các quan hệ tương tác qua lại giữa họ với nhau. Còn lịch sử về các mối quan hệ kinh tế và đời sống nhân dân ít được đề cập đến.

Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ quốc sử lớn của nước ta thời phong kiến nên có dấu ấn ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, trong đó sự ảnh hưởng của Nho gia là sâu đậm nhất. Tư tưởng Nho gia đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đầu óc các sử gia Việt Nam. Nhiều khi các sử gia đã nhìn nhận nhân vật lịch sử thiếu tính khách quan, mà mang màu sắc chủ quan. Mục đích viết sử là để khen chê, nêu gương đạo đức. Một lời khen vinh dự hơn áo mũ quan tước, một lời chế nặng hơn búa rìu. Những người hiếu nghĩa trung quân được ca ngợi, trái lại những kẻ bất trung bất hiếu bị phê phán nặng nề. Người thiện đọc sử có thể bắt chước, người ác biết có thể tự răn. Như vậy, mục đích chép sử để theo đuổi một luân lí đạo đức chứ không phải đi tìm một qui luật vận động khách quan của lịch sử. Mục đích chép sử này khác hẳn cách chép sử của khoa học lịch sử hiện đại ngày nay.

Câu chuyện về nàng liệt nữ Mỵ Ê không phải là trường hợp cá biệt. Lần giở lại những trang sử trong Đại Việt sử kí toàn thư chúng tôi nhận thấy một thực tế lịch sử rằng ở thời Lí- Trần có chuyện những người phụ nữ chết theo chồng có thể là tự nguyện và cũng có thể là bị ép. Đại Việt sử ký toàn thư bắt đầu viết năm 1479 nên gần như cùng thời với Việt điện u linh và trước Lĩnh Nam chích quái. Những câu chuyện về kiểu liệt nữ mà Đại Việt sử ký toàn thư ghi cho thấy quan điểm Nho giáo đã chi phối đến sự lựa chọn đối tượng miêu tả.

Những ghi chép đầu tiên của chính sử về người liệt nữ là về nhân vật nàng Mỵ Ê: ―Mùa thu, tháng 7 vua đem quân vào thành Phật Thệ, bắt vợ cả vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung nữ kẻ nào giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên. Sai sứ đi khắp các hương ấp, phủ dụ nhân dân. Các quan mừng thắng trận(…)Tháng 9 ngày mồng 1, đóng ở Phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự. Khi đến hành điện Lỵ Nhân, sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi tần của Sạ Đẩu sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẫn uất lắm, ngầm lấy chăn chiên quấn vào mình nhảy xuống sông chết. Vua khen là trinh tiết, phong làm Hiệp chính hựu thiện phu nhân‖ [75; tr.189-190].

Một câu chuyện khác về người liệt phụ Hà Thị cũng dưới triều Lí Nhân Tôn: ―Giáp Thìn, năm thứ 5 (1124)…Tháng 9, Thành Khánh hầu (không rõ tên) chết…Tháng 12, phu nhân của Thành Khánh hầu là Hà Thị uống thuốc độc chết theo chồng‖[75; tr.215]. Sự ―tự

nguyện‖ của Hà Thị quả là gây một tác động tâm lí rất mạnh đó là việc uống thuốc tự tử và điều này cũng được sử gia Ngô Sĩ Liên cảm khái mà rằng: ―Người đàn bà chỉ theo một chồng cho đến chết, không phải là chết chôn theo chồng. Hà Thị quá tình làm thẳng, đến nỗi uống thuốc độc chết theo, tuy là quá, nhưng người khác cho là khó mà tự Hà Thị lại cho là dễ dàng, việc ấy cũng là khó làm. Hoặc giả Thành Khánh hầu đến lúc ấy mới chôn mà Hà Thị chết để chôn theo chăng?”[75; tr.215]. Ở đây Ngô Sĩ Liên giả định một tinh thần liệt nữ ở dạng mạnh mẽ, quyết liệt hơn: chết để được chôn cùng chồng.

Một sự kiện nữa về người liệt nữ được chép lại dưới thời Lí khi mà thuyết ―tòng phu‖ cũng được đẩy lên một cách cực đoan giống trường hợp thái hậu Thượng Dương và 76 cung nữ: ―Ngày Ất Dậu (tháng 12 năm 1127), vua bắt đầu ngự điện Thiên An coi chầu, xuống chiếu cho các quan bỏ áo trở. Ngày hôm ấy vua ngự giá đi Na Ngạn xem các cung nữ lên dàn thiêu để chết theo Đại Hành Hoàng Đế‖ [75; tr.218]. Đây là phong tục của Chiêm Thành, Ấn Độ và nhiều nước Đông Nam Á chứ chưa chắc phải là sự tự nguyện của phụ nữ. Dẫu sao nó cũng có dáng dấp của liệt nữ.

Một câu chuyện dưới triều Trần cũng chép cái chết có dáng dấp liệt nữ: ngày 13 tháng 2 năm 1295 “người đàn bà ở phường Tây Nhai phía hữu kinh thành là Lê Thị Ta nghe tin chồng là Phạm Mưu đi sứ sang nước Nguyên ốm chết, thương nhớ không ăn ba ngày rồi cũng chết. Việc tâu lên, vua ban cho bạc và lụa‖[75; tr.325]. Nhân sự kiện này sử gia Ngô Sĩ Liên bình: ―Công chúa Thiều Dương nghe tin Thái Tôn băng kêu gào mãi rồi chết. Lê thị nghe tin chồng chết không ăn mà chết. Mỵ Ê phu nhân tiết nghĩa không lấy hai chồng, trầm mình chết; vợ Ngô Miễn là Nguyễn Thị không phụ nghĩa chồng, cũng trầm mình chết theo chồng; mấy người ấy nết thuần hiếu trinh khiết trên đời thực không có mấy, vua bấy giờ nêu khen là phải lắm, để khuyến khích đời sau. Nhưng Thiều Dương và Nguyễn Thị chưa thấy nêu khen, cho nên bàn cả vào đây‖[75; tr.325]. Không chỉ khen bằng lời, các triều đình đang nho giáo hoá còn dùng các hình thức động viên vật chất cụ thể đối với người liệt nữ, tiết phụ. Sử cũ chép: ―Năm 1456, tháng năm truyền thánh chỉ cho xã Đào Xác, huyện Chí Linh, lộ Nam Sách thượng rằng vợ goá của Nguyễn Văn Điều là tiết phụ, cho cấp bảng vàng treo ở cổng làng để biểu dương và miễn phu dịch cho 11 người con và cháu để phụng dưỡng‖.[75; tr.605]…Lời bình của Ngô Sĩ Liên cho thấy mục đích ghi chép là khuyến khích phụ nữ các đời sau noi gương, vậy mục đích sâu xa không

phải tôn vinh một cá nhân nào mà là xây dựng một mẫu hình hành vi cho phụ nữ. Điều này cũng cho thấy: nếu xếp biên niên ở giai đoạn lịch sử này, càng ngày các sử gia và các triều đình càng có ý thức tuyên dương, đề cao những tấm gương mang dấu ấn liệt nữ với ý thức giáo dục người phụ nữ hành xử theo chuẩn mực đạo Nho đối với phụ nữ.

Như vậy, hiện tượng xuất hiện người liệt nữ trong thực tế lịch sử tuy không phải nhiều nhưng cũng không phải quá cá biệt. Nếu căn cứ vào số lượng tác phẩm viết về người liệt nữ cũng như tần số xuất hiện của họ trong văn học để khái quát rằng đây không phải là kiểu nhân vật tiêu biểu cho giai đoạn văn học X-XV e rằng sẽ máy móc và không chính xác. Có những nhân vật xuất hiện tràn lan trong nhiều tác phẩm, nhiều thể loại nhưng không có nghĩa đó là nhân vật được mọi người thích thú, tâm đắc. Đấy là những chỉ số xã hội phản ánh một thực tế nào đấy của xã hội. Còn chỉ số tâm lí thì không xác định được, hay còn rất mơ hồ. Phải làm sao biết được những loại nhân vật được con người thích thú và ảnh hưởng của nó trong tâm tưởng con người ra sao thì đó mới là câu trả lời chính xác cho địa vị của nhân vật tiêu biểu của thời đại đó. Nhân vật thời đại tiêu biểu không phải bao giờ cũng là nhân vật chiếm số đông. Nhân vật liệt nữ Mỵ Ê là nhân vật tiêu biểu của văn học giai đoạn đầu và có sức hấp dẫn đối các nhà nho suốt thời kì trung đại và sang cả cận đại là do đâu? Đó là vì hình mẫu này đã đáp ứng đầy đủ những chuẩn mực của người phụ nữ mà Nho giáo mong đợi. Hơn nữa mặc dù nàng là người phụ nữ Chiêm Thành nhưng lại có ứng xử hệt như người học đạo Nho như thế đủ thấy tính phổ biến của Nho giáo. Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là: tại sao trường hợp của Mỵ Ê lại được sử sách và các tác giả văn học quan tâm hơn những liệt nữ khác? Có thể có nhiều nguyên do nhưng theo chúng tôi có lẽ do nàng là vợ vua (vua Sạ Đẩu, nước Chiêm Thành) nghĩa là nàng có danh phận hẳn hoi nên nhiều người biết đến chứ không phải vô danh như liệt phụ Hà Thị, Lê thị hay các cung nữ nào đó. Vậy thì sẽ giải thích sao về trường hợp thái hậu Thượng Dương? Điều này thì lại thật dễ hiểu: các tác giả nho gia luôn muốn từ hình mẫu liệt nữ Mỵ Ê để giáo dục đạo đức cho người phụ nữ vì khi chồng Mỵ Ê chết, bị vua Lí cưỡng ép nên nàng đã ―tự nguyện‖ nhảy xuống sông để chết theo chồng. Cho nên cũng là vợ vua nhưng thái hậu Thượng Dương chết theo chồng là do bị bức tử còn Mỵ Ê là tự nguyện. Do đó các tác giả từ Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sử kí toàn thư đến Lê Thánh Tông, Đặng Minh Khiêm…đều khai thác cái chết của Mỵ Ê để chuyển tải những vấn đề về đạo lí phu phụ, tiết hạnh người phụ nữ…Chúng tôi sẽ nói rõ điều này trong phần Mỵ Ê-số phận và sự tiếp nối cảm hứng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/12/2022