Giáo trình An toàn điện lạnh Nghề: Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa không khí - Cao đẳng - Trường Cao đẳng nghề Đồng Tháp - 13

Hình 2 8 Cấp cứu nạn nhân bằng hô hấp nhân tạo Với trẻ em 20 lần trong 1 1Hình 2 8 Cấp cứu nạn nhân bằng hô hấp nhân tạo Với trẻ em 20 lần trong 1 2


Hình 2 8 Cấp cứu nạn nhân bằng hô hấp nhân tạo Với trẻ em 20 lần trong 1 3


Hình 2.8. Cấp cứu nạn nhân bằng hô hấp nhân tạo

- Với trẻ em: 20 lần trong 1 phút.

3.3.4. Khi có hai người làm hô hấp

Đây là phương pháp cấp cứu có hiệu quả cao nhất. Cách thực hiện như sau:

+ Để nạn nhân nằm ngửa, nới rộng quần áo, moi rớt rãi trong mồm nạn nhân, đặt gối hoặc quần áo vo tròn dưới bả vai nạn nhân để đầu hơi ngửa ra phía sau.

+ Người thứ nhất để 2 tay chồng lên nhau, đặt lòng bàn tay trên vùng tim nạn nhân và ấn mạnh cho lõm ngực xuống khoảng 3 - 4cm để không khí trong phổi nạn nhân bị đẩy ra ngoài, động tác này còn có tác dụng kích thích tim hoạt động. Sau đó nhấc tay lên ngay để lồng ngực nạn nhân trở lại bình thường. Ép như vậy 4 nhịp liên tục, 1 giây 1 nhịp, sau đó dừng lại 2 giây để người thứ hai thổi ngạt.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

+ Khi người thứ nhất dừng ép tim thì người thứ hai hít thật mạnh để lấy nhiều không khí vào phổi mình, một tay bịt mũi nạn nhân, tau kia kéo cầm nạn nhân cho há miệng ra và đồng thời áp miệng vào miệng nạn nhân thổi mạnh cho không khí tràn vào phổi nạn nhân, làm ngực nạn nhân từ từ phồng lên.

+ Khi người thứ hai ngừng thổi ngạt thì người thứ nhất lặp lại động tác ép ngực nạn nhân. Công việc cứ tiếp tục lặp đi lặp lại từ 14 - 16 lần trong 1 phút cho đến khi nạn nhân tự thở được hoặc có ý kiến của y, bác sỹ mới thôi.

Ghi chú:

- Trường hợp nạn nhân bị vỡ quai hàm thì bịt miệng nạn nhân và thổi ngạt qua đường mũi nạn nhân.

- Trường hợp nạn nhân bị gãy xương sườn thì chỉ thực hiện việc thổi ngạt, bỏ động tác ép tim ngoài lồng ngực nạn nhân.


Hình 2.9. Hô hấp nhân tạo kết hợp 2 người

4. PHÒNG TRÁNH VÀ SƠ CỨU CÁC TAI NẠN KHÁC

4.1. Bỏng

* Bước 1: Nhanh chóng loại bỏ tác nhân gây bỏng theo nguyên tắc cách ly nạn nhân với nguồn nhiệt. Loại trừ tiếp xúc với tác nhân gây bỏng càng sớm càng tốt.

– Dùng nước để dập tắt lửa hoặc có thể dùng áo, chăn, vải bọc kín chỗ đang cháy để dập lửa.

– Xé bỏ quần áo đang cháy âm ỉ hoặc bị thấm đẫm nước nóng, dầu hay các dung dịch hóa chất nếu ngay sau đó không có nước lạnh dội vào vùng bỏng.

– Đối với bỏng điện thì cần phải ngắt ngay nguồn điện hoặc tách nạn nhân ra khỏi nguồn điện.

– Tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng nhẫn, đồng hồ trước khi vết bỏng sưng nề.

* Bước 2: Nhanh chóng làm mát vùng bị tổn thương (thường dùng nước mát). Đây là biện pháp đơn giản, hiệu quả. Thao tác này phải tiến hành ngay sau khi bị bỏng, càng sớm càng tốt, sau 30 phút mới làm thì không hiệu quả

– Sử dụng nước sạch, nhiệt độ nước tiêu chuẩn là từ 16oC-20oC để ngâm hoặc rửa vùng bị tổn thương. Tận dụng nguồn nước sẵn có như nước đun sôi để nguội, nước máy, nước mưa, nước giếng…

– Có thể ngâm, rửa phần bị bỏng dưới vòi nước hoặc trong chậu nước mát, cũng có thể đắp thay đổi bằng khăn ướt, dội liên tục nước sạch lên vùng bỏng. Nếu bỏng hóa chất thì phải rửa các hóa chất bằng nước và chất trung hòa.

– Kết hợp vừa ngâm rửa phần bị bỏng, vừa cắt bỏ quần áo bị cháy, rửa sạch dị vật hoặc tác nhân gây bỏng còn bám ở vết bỏng

– Thời gian ngâm rửa từ 15-45 phút (thường cho tới khi hết đau rát) tránh làm vỡ, trợt vòm nốt bỏng.

– Giữ ấm phần cơ thể không bị bỏng, đặc biệt với trẻ em, người già, khi thời tiết lạnh nên rút ngắn bớt thời gian ngâm, đề phòng nhiễm lạnh.

Lưu ý:

– Không dùng đá, nước đá lạnh;

- Không đắp các loại thuốc mỡ, lá cây … vào vùng bỏng khi chưa rửa sạch;

– Không làm chợt loét vết bỏng, bóc bỏ vòm nốt bỏng;

– Rửa nước lạnh cũng làm tăng sự mất nhiệt, thân nhiệt tiếp tục giảm gây sốc nặng thêm. Do vậy, việc dùng nước để rửa hoặc ngâm vết thương cần được kiểm soát chặt chẽ khi diện bỏng rộng lớn hơn 15% diện tích cơ thể, nhất là trẻ em và người già.

* Bước 3: Phòng chống sốc bỏng.

– Đặt nạn nhân ở tư thế nằm.

– Động viên an ủi nạn nhân.

– Cho nạn nhân uống nước vì nạn nhân rất khát nhất là khi phải chuyển nạn nhân đi xa.

Chú ý:

– Chỉ cho nạn nhân uống nước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thương khác.

– Dung dịch cho uống: nếu có điều kiện nên pha dung dịch sau để cho nạn nhân uống:

Pha vào 1 lít nước:

+ 1/2 thìa cà phê muối ăn;

+ 1/2 thìa cà phê muối natri bicarbonat (NaHCO3);

+ 2-3 thìa cà phê đường hoặc mật ong, nước cam, chanh ép;

Nếu không có điều kiện để pha dung dịch trên thì có thể cho nạn nhân uống nước chè đường, nước trái muối, đường hoặc oreson.

– Dùng thuốc giảm đau cho nạn nhân, dùng aspirin.

Khi dùng thuốc giảm đau phải chú ý nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương bên trong thì không được dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh.

* Bước 4: Duy trì đường hô hấp.

Nạn nhân bị bỏng vùng mặt cổ, nhất là khi bị kẹt trong nhà bị cháy mà ở đó có dầu, đồ đặc, bàn ghế, đang bốc cháy… sẽ nhanh chóng bị phù mặt, cổ và các biến chứng của đường hô hấp do hít phải khói hơi. Những trường hợp này phải ưu tiên số một và phải được chuyển tới bệnh viện ngay. Nhưng trong khi chờ đợi phải theo dõi sát nạn nhân và phải đảm bảo sự thông thoát đường hô hấp (giữ tư thế đúng hoặc có thể đặt một canul vào mũi hoặc miệng nạn nhân, có trường hợp phải mở khí quản…)

* Bước 5: Phòng chống nhiễm khuẩn.

Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy, khi cấp cứu bỏng phải rất thận trọng để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn: không dùng nước không sạch để dội hoặc đắp

vào vết bỏng và có điều kiện người cấp cứu nên rửa tay sạch và tránh động chạm vào vết bỏng.

* Bước 6: Băng vết bỏng.

– Không được bôi dầu mỡ, dung dịch cồn ngay cả kem kháng sinh vào vết bỏng.

– Không được chọc phá các túi phỏng nước.

– Không được bóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng.

– Nếu có điều kiện thì phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn nếu không thì dùng vải càng sạch càng tốt.

– Vết bỏng sẽ chảy rất nhiều dịch nên trước khi dùng băng co giãn để băng vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng

Chú ý: Nếu không có băng co giãn thì chỉ được băng lỏng vùng bỏng để đề phòng khi vết bỏng sưng nề gây chèn ép.

– Nếu bỏng bàn tay thì có thể cho bàn tay vào một túi nhựa rồi băng lỏng cổ tay, làm như vậy sẽ cho phép nạn nhân vẫn cử động được các ngón tay một cách dễ dàng vừa tránh làm bẩn vết bỏng

– Nếu vết bỏng ở cổ tay hoặc chân thì trước hết phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn hoặc vải sạch sau đó cho vào một túi nhựa. Có thể đặt nẹp cố định chi bị bỏng, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nâng cao chi bị bỏng để chống sưng nề các ngón chân, ngón tay và phải khuyên nạn nhân vận động sớm các ngón chân, ngón tay nếu có thể được.

* Bước 7: Chuyển bệnh nhân tới cơ sở y tế gần nhất. Cần lưu ý và sơ cứu những tổn thương phối hợp (cố định chi gãy, cố định đầu cổ tốt nếu nghi ngờ có chấn thương cột sống cổ,…).

4.2. Bong gân, trật khớp

Bệnh nhân cần nghỉ ngơi, bớt vận động, chườm đá giảm đau, dùng băng thun quấn nhẹ nhàng và kê cao vùng bị tổn thương để giảm sung, sơ cứu ban đầu rất quan trọng với người bị chấn thương bong gân, trật khớp. Sơ cứu kịp thời giúp giảm rủi ro, không làm nặng thêm chấn thương, thuận lợi cho việc điều trị tiếp theo tại cơ sở y tế.

Nếu bị đụng dập, nạn nhân tổn thương gân cơ (nối các cơ). Khi khớp bị kéo căng hay bong gân, là tổn thương của dây chằng (giúp liên kết 2 đầu xương với nhau). Trong cả 2 trường hợp, bạn nên thực hiện 4 bước sơ cứu sau:

Nghỉ ngơi

Hạn chế vận động để giảm đau, có thể dùng nạng, gậy hoặc nẹp vải nếu chấn thương nhẹ. Trường hợp sau chấn thương các cử động thông thường bị giới hạn, nên để vùng tổn thương được nghỉ ngơi hoàn toàn bằng cách nẹp cố định qua hai khớp bằng bất cứ vật gì dài và chắc.


Hình 2 10 Minh hoạ chườm đá khi bị bong gân Hạn chế vận động để giảm đau 4

Hình 2.10. Minh hoạ chườm đá khi bị bong gân

Hạn chế vận động để giảm đau, có thể dùng nạng, gậy hoặc nẹp vải nếu chấn thương nhẹ.

Lưu ý: Không nên cố gắng nắn, bẻ, chỉnh sửa nơi bị đau để cố đưa về vị trí bình thường hoặc lặp đi lặp lại các cử động mặc dù khó khăn, sẽ gây đau và làm tổn thương nặng hơn.

Chườm đá

Để giảm đau và sưng phù, nên dùng thuốc xịt giảm đau và các túi chườm lạnh nhanh. Bạn có thể lấy đá lạnh cho vào túi nilon rồi dùng khăn bọc lại chườm để tránh tê cóng.

Trong 24 giờ đầu, nên chườm đá khoảng 3 lần, mỗi lần từ 20 đến 30 phút. Đặc biệt là không thoa dầu nóng hoặc dùng nhiệt trong 24 giờ đầu vì có thể làm sưng, bầm nhiều hơn.

Băng ép

Dùng băng thun quấn nhẹ nhàng và đều tay giúp vùng tổn thương giảm sưng nề và mau hồi phục. Không nên băng quá chặt tay làm ảnh hưởng đến tuần hoàn phía sau nơi băng ép.

Lưu ý: Luôn kiểm tra các đầu ngón chân xem có tím hoặc tê bì không, nếu có thì cần phải nới lỏng băng thun.

Kê cao

Bạn cần kê vùng tay chân bị tổn thương lên cao hơn tim để tăng lượng máu tĩnh mạch dồn về hệ tuần hoàn, giảm sưng nề.

Nạn nhân sau khi té ngã không thể đứng dậy được, đau nhiều vùng lưng hay vùng cổ, không thể xoay trở cổ, mất cảm giác và vận động, nhiều khả năng bị chấn thương tủy sống. Bạn cần bình tĩnh gọi cấp cứu để được hỗ trợ y tế ngay, vì mọi cố gắng xoay trở hay khiêng vác nạn nhân lúc này đều có thể làm nặng hơn các tổn thương ở tủy sống cổ hoặc lưng, dẫn đến liệt.

Khuyên nên có biện pháp phòng ngừa tai nạn trong nhà. Chẳng hạn, cầu thang nên có tay vịn cả hai bên, không để những vật dụng không cần thiết trên cầu thang, chú ý phải đủ ánh sáng cho cả lối lên và xuống. Phòng tắm không được trơn trượt, có thể lót thảm chống trượt, hoặc làm nơi tắm riêng biệt để nước không bắn khắp sàn. Cửa sổ không nên dùng loại lùa mà lắp cửa có chấn song. Ban công đảm bảo độ cao an toàn, có che chắn phù hợp. Đối với trẻ nhỏ, người lớn luôn quan sát trẻ khi chơi ngoài hành lang, ban công, ngoài đường...

4.3. Vết thương chảy máu

Vết thương bị chảy máu nếu không được sơ cứu đúng cách có thể khiến người bệnh mất máu hoặc nhiễm trùng cực kỳ nghiêm trọng.

Nguyên tắc chung khi sơ cứu vết thương chảy máu ngoài:

1. Nhanh chóng ép trực tiếp lên vết thương đang chảy máu: Dùng băng, gạc, vải sạch hoặc dùng chính bàn tay của bệnh nhân hay bàn tay của người cấp cứu để ép vào vết thương

2. Nâng cao vùng bị tổn thương: Ðặt nạn nhân nằm ở tư thế thoải mái, nâng vùng bị tổn thương cao hơn người để giảm áp lực máu tới vùng này.

3. Dùng băng cuộn hoặc dây vải băng ép miếng gạc hay vải vào vết thương. Nếu máu vẫn chảy thấm qua băng thì tiếp tục băng chồng lên và không băng quá chặt.

4. Nếu các vết thương chảy máu có dị vật như: mảnh gỗ, kim loại, mảnh thủy tinh hoặc bất kỳ vật gì đâm vào và vẫn cắm ở vết thương thì:

- Tuyệt đối không được rút dị vật ra.

- Ép vết thương sát với dị vật.

- Dùng miếng vải, gạc băng vết thương bằng cách quấn lại thành vòng đệm xung quanh dị vật, chú ý không gây áp lực trực tiếp lên dị vật.

5. Chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế:

Nếu vết thương nhỏ và nạn nhân có thể di chuyển bằng ô tô, xe máy thông thường thì chuyển ngay nạn nhân tới cơ sở y tế gần nhất.

Nếu vết thương nặng thì gọi cấp cứu càng sớm càng tốt.

Trong khi chờ xe cấp cứu hoặc trên đường vận chuyển phải theo dõi sát tình trạng hô hấp, tuần hoàn và giữ ấm cho bệnh nhân.

Chú ý:

- Trong quá trình sơ cứu cho nạn nhân, cố gắng tránh tiếp xúc với máu của nạn nhân bằng cách sử dụng găng tay dùng 1 lần (nếu có) hoặc túi nilong sạch khi không có găng tay.

-Với các vết thương chảy máu quá nhiều không thể kiểm soát, cần nhanh chóng thay gạc và băng thứ nhất đã sũng máu bằng lớp gạc và băng mới. Máu không cầm được có thể do tấm gạc thứ nhất dùng để chèn vết thương đã bị trượt ra so với vị trí ban đầu

5. AN TOÀN VỆ SINH CÔNG NGHIỆP

5.1. Khái niệm

Vệ sinh công nghiệp xuất hiện từ những năm đầu 80 của thế kỷ 20. Du nhập vào Việt Nam từ những năm 90 bắt đầu bằng công việc vệ sinh hệ thống các nhà hàng khách sạn. Qua hơn 20 năm hoàn thiện và phát triển, vệ sinh công nghiệp Việt Nam đã khẳng định được vai trò của mình đối với cuộc sống và sự phát triển của xã hội.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 18/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí