Đtpt Đội Ngũ Giảng Viên Thông Qua Các Chương Trình Htđtqt - Nhìn Từ Thực Tiễn Phát Triển Nghề Nghiệp Của Giảng Viên


Như vậy, chương trình Sida MBA đm thực sự thành công trong việc đưa ra một mô hình đào tạo và phát triển giảng viên hiệu quả. Thông qua nội dung đào tạo trực tiếp của khóa học và các hoạt động liên quan đến đào tạo khác, chương trình đm tạo ra những không gian làm việc hết sức rộng mở, cho phép các giảng viên được học hỏi ở tất cả các khía cạnh và các bước của quá trình học tập, tiếp thu, trải nghiệm, thực hành và sáng tạo [44]. Đây thực sự là môi trường lý tưởng cho việc đào tạo và phát triển đội ngũ giảng viên. Và chính điều đó cũng góp phần đáng kể vào việc giải quyết nỗi lo lắng ban đầu của những người xây dựng dự án: liệu sau khi nhận bằng MBA, các giảng viên có yên tâm làm việc trong nhà trường trong khi họ sẽ là những người có bằng MBA đầu tiên ở Việt Nam và trong bối cảnh các công ty nước ngoài đang ráo riết tìm kiếm nguồn nhân lực làm việc cho họ. Câu trả lời hết sức thuyết phục: trong số 25 giảng viên của trường tốt nghiệp của khóa 1, trừ 1 người đi khỏi trường sau một thời gian được đưa về lại

đơn vị cũ là Khoa Mác Lê - nin, các giảng viên còn lại được phân về các đơn vị khác trong trường, đặc biệt là 100% số giảng viên được giữ lại ở Trung tâm đm yên tâm làm việc trong môi trường mới, với nhiều cơ hội phát triển và thử thách, cho phép họ phát huy những kiến thức đm học và tiếp tục phát triển, hướng tới các chuẩn mực quốc tế. Khóa 2, đại đa số học viên là giảng viên của trường KTQD vẫn ở lại trường làm việc. Chỉ đến khóa 3, một số giảng viên của trường sau tốt nghiệp đm chuyển sang nơi công tác mới, cũng là một cơ sở đào tạo và trở thành nòng cốt cho môi trường đào tạo của đơn vị đó – một đơn vị đào tạo tiên tiến, với hướng phát triển theo các chuẩn mực quốc tế, mở ra nhiều không gian cho các giảng viên ứng dụng những kỹ năng kiến thức họ đm được học. Thực tế là nơi này, đm và đang thu hút một lực lượng đông đảo các giảng viên đm tốt nghiệp từ chương trình Sida MBA của trường KTQD sang làm việc cho họ, qua một loạt các chương trình hợp tác với nước ngoài và các chương trình đào tạo của họ với các chuẩn mực tiếp cận quốc tế, và do đó có khả năng trả thù lao cao hơn cho giảng viên, cung cấp cho họ một môi trường làm việc nhiều thử thách hơn, với giá trị gia tăng cao hơn.

Bài học rút ra qua chương trình Sida MBA này trong việc ĐTPT đội ngũ


giảng viên là:

- Quá trình đào tạo phải chú ý tới việc tạo ra các cơ hội cho giảng viên

được thực hành trong quá trình học tập, vừa học vừa hành. Các cơ hội làm việc với các học viên khoá sau ở tư cách trợ giảng, vừa hỗ trợ giảng viên nước ngoài trong giảng dạy, vừa hỗ trợ học viên mới trong học tập là cơ hội tiếp tục được đào tạo hết sức giá trị cho các giảng viên.

- Việc phát triển và triển khai các hoạt động mới (các khoá đào tạo ngắn hạn, dài hạn, các hoạt động nghiên cứu, tư vấn) nhằm tạo điều kiện để các giảng viên phát huy những kiến thức kỹ năng đm được đào tạo là điều cần làm, một mặt, vì đó là mục tiêu của chương trình đào tạo, mặt khác, chính điều đó đối với các giảng viên lại là cơ hội để họ tiếp tục củng cố và phát triển những gì đm học, đồng thời tạo điều kiện cho họ thể hiện năng lực đm được nâng cao của mình và qua đó, nhận được thù lao xứng đáng để duy trì động lực làm việc.

Xét về tổng thể, các cơ hội thực tập, ứng dụng phù hợp sau các chương trình

đào tạo chính thức là điều kiện cần thiết để phát triển đội ngũ giảng viên và duy trì động lực làm việc của họ.

Các hoạt động tương tự cũng được thực hiện đối với đội ngũ giảng viên, tham gia vào các chương trình đào tạo thuộc các dự án tài trợ khác, dự án Cao học Hà Lan – kinh tế phát triển, Dự án MBA và Tiến sĩ SAV (Swiss - AIT – Vietnam).

Các chương trình HTĐTQT về sau, theo hình thức tự trang trải toàn phần hay một phần kinh phí đm tiếp tục sử dụng và phát huy mô hình trợ giảng, vừa như một biện pháp làm gia tăng giá trị cho chương trình của đối tác Việt Nam, vừa là biện pháp ĐTPT giảng viên. Khóa học dự bị trước chương trình chính thức cũng đm trở thành một đặc điểm không thể thiếu của các chương trình này, vừa thực sự hữu dụng đối với người học, vừa là cơ hội giảng dạy, cho phép các giảng viên phát huy những nội dung đm được học từ các chương trình quốc tế. Ngoài ra, các chương trình cũng tranh thủ sử dụng nguồn giáo sư nước ngoài trong các hoạt

động như sinh hoạt khoa học, nói chuyện, hội thảo... Các cơ hội thực tập ở các trường đối tác, cùng tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học... là những


cơ hội phát triển nghề nghiệp mà các giảng viên đánh giá cao.

Qua việc tham gia vào các hoạt động này, năng lực của các giảng viên được nâng cao về các mặt: chuyên môn, phương pháp giảng dạy, tính chuyên nghiệp và nhận thức về các xu hướng phát triển tất yếu trong lĩnh vực chuyên môn cũng như trong công tác giảng dạy.

Sự phát triển liên tục về chuyên môn của đội ngũ giảng viên và nhân viên là một trong những mục tiêu quan trọng (đối với một số chương trình là mục tiêu quan trọng nhất) của các chương trình HTĐTQT. Khi xây dựng và thực hiện chương trình, lmnh đạo các chương trình này đặt ra mục tiêu trên, cho nên sự tham gia ngày càng nhiều của các giảng viên Việt Nam trong chương trình được

đánh giá như là một thành công của các chương trình HTĐTQT, ngoài việc thành công về đào tạo ra các cử nhân và thạc sĩ đạt trình độ khu vực và quốc tế.

Tỷ lệ giảng viên Việt Nam tham gia giảng dạy chính thức trong các chương trình HTĐTQT tăng lên đáng kể.

Khả năng tham gia giảng dạy chính thức các môn học trong chương trình HTĐTQT ngoài phụ thuộc vào khả năng của các giảng viên, còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách chất lượng và hình ảnh của chương trình, vào quan điểm của các đối tác, Việt Nam và nước ngoài, và phụ thuộc cả vào chính sách quản lý của Bộ GD và ĐT. Ví dụ Thông tư số 15 của Bộ GD và ĐT quy định các chương trình liên kết cấp bằng của nước ngoài cần đảm bảo ít nhất 50% môn học được giảng dạy bằng giảng viên nước ngoài.

Bảng 2.6: Mức độ tham gia vào các chương trình HTĐTQT của giảng

viên Việt Nam



STT


Tên các chương trình HTĐTQT

Ngôn ngữ đào tạo


Tên văn bằng


Số môn học

Tỉ lệ các môn học trong chương trình GV Việt Nam

đảm nhận giảng dạy (%)

1

Cao học Pháp - Việt (đại học

kinh tế quốc dân Hà Nội)

Anh

Thạc sĩ

14-16 môn/

khoá 2 năm

50%


2

Cao học Việt –Bỉ, Việt Mỹ (Khoa QLĐTQT - đại học kinh

tế quốc dân Hà Nội)


Anh - Pháp


Thạc sĩ

14-16 môn/

khoá 2 năm


50%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 222 trang tài liệu này.

Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các trường Đại học khối Kinh tế của Việt Nam thông qua các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế - 14



3

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, đại học KT TP HCM


Anh

Chương trình học nâng cao 1

năm


19 môn/ khoá

1 năm


80%


4

Dự án Việt Nam - Hà Lan (Hà Nội và TPHCM)


Anh


Thạc sĩ

29/ khoá 3 năm


80-90%


5

Chương trình EMBA - ĐH KTQD


Anh


Thạc sĩ

15 môn/ khóa

2 năm


100%


6

Chương trình cử nhân QTKD quốc tế


Anh


Đại học

40 môn/khóa

4 năm


50%

Nguồn: Tập hợp từ các báo cáo của các chương trình HTĐTQ [25],

[26],[27],[39],[40],[45],[46],[47]

Với sự có mặt đông đảo của các chương trình HTĐTQT (Phụ lục 5), các chương trình này đm thực sự cung cấp các cơ hội làm việc và rèn luyện đáng kể ở chuẩn mực quốc tế cho các giảng viên Việt Nam: các giảng viên Việt Nam thường đảm nhận không dưới 50% số môn học trong chương trình, chưa kể đến 100% vị trí trợ giảng là của giảng viên Việt Nam và các hoạt động khác như hướng dẫn luận văn, tổ chức các họat đọng báo cáo ngoại khóa...

Dù với chính sách chất lượng và hình ảnh của chương trình có khác nhau, việc các giảng viên Việt Nam tham gia giảng dạy trong các chương trình HTĐTQT được chấp nhận và phát triển bền vững là một thành công lớn, nhất là tính đến áp lực đối với các giảng viên khi giảng dạy trong các chương trình này: học phí cho các chương trình HTĐTQT thường cao hơn so với chương trình trong nước cả chục lần, trong khi tỷ lệ tốt nghiệp của học viên lại thấp hơn (tỷ lệ học viên tốt nghiệp trong các chương trình Cao học Hà Lan và Việt – Bỉ thường ở mức khoảng 80%).

(iii) Cách tiếp cận đối với công tác ĐTPT đội ngũ giảng viên

Thực tế công tác ĐTPT đội ngũ giảng viên trong các trường ĐH tuy vẫn có, và vẫn được coi là hoạt động thường xuyên trong mỗi nhà trường, song thực chất


còn nghèo nàn. Các khóa đào tạo chủ yếu để đáp ứng những thiếu hụt trước mắt, trong công việc, và đặc biệt là để đáp ứng các tiêu chuẩn xét tuyển chức danh hay học hàm học vị. Không có một kế hoạch ĐTPT một cách tổng thể để đáp ứng những yêu cầu về nguồn nhân lực mang tính chiến lược phát triển rõ ràng của các nhà trường.

Đối với các chương trình HTĐTQT, mục tiêu ĐTPT đội ngũ giảng viên

được triển khai theo các cách tiếp cận khác nhau. Đối với các chương trình tài trợ với mục tiêu đào tạo giảng viên, do tính chất đặc thù của dự án và đòi hỏi của các tổ chức tài trợ, việc tổ chức triển khai chương trình và lựa chọn đối tượng đào tạo thường được chọn lựa bài bản, theo quy trình, với sự tham gia các cấp lmnh đạo của các nhà trường. Các bước triển khai hoạt động của các dự án cũng có sự tham gia lmnh đạo từ phía nhà trường như đơn vị quản lý cao nhất đối với giảng viên và theo một chương trình được thiết kế theo nội dung dự án. Các giảng viên được tham gia vào các chương trình với sự đồng ý và sắp xếp của nhà trường. Tuy nhiên, đối với các chương trình tự trang trải kinh phí, việc tham gia vào các chương trình chủ yếu do sự chủ động của các cá nhân. Với hình thức quản lý theo kiểu dự án, mỗi chương trình HTĐTQT hoạt động trong nhà trường tương đối

độc lập, phụ thuộc trực tiếp vào sự điều hành của Ban điều hành dự án trong nỗ lực thực hiện các mục tiêu của chương trình.

Trong bối cảnh của xu thế hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, các trường đại học đều thấy được vai trò quan trọng của công tác HTĐTQT. Các chương trình HTĐTQT, nhờ vậy, luôn nhận được sự ủng hộ phát triển của ban lmnh đạo nhà trường. Tuy nhiên, một chiến lược phát triển hướng tới các chuẩn đào tạo quốc tế, với các bước chuẩn bị chủ động và có kế hoạch đối với lực lượng giảng viên vẫn chưa được nhìn thấy trong các trường đại học khối kinh tế. Sự phát triển của các chương trình đào tạo vẫn mang tính cục bộ đối với từng chương trình, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và với sự phát triển chung của nhà trường, thể hiện qua việc phân bố lực lượng cho các chương trình một cách hợp lý.

Trước thực tế nhu cầu đào tạo ngày càng cao đối với các trường đại học khối kinh tế, đội ngũ giảng viên của các trường thường rơi vào tình trạng quá tải.

Điều đó dẫn đến những mâu thuẫn trong việc triển khai các chương trình

110


HTĐTQT. Trong khi đánh giá cao lợi ích của việc tham gia vào các chương trình HTĐTQT, được làm việc trong môi trường với các điều kiện làm việc tốt hơn, mức thù lao cao hơn, đòi hỏi yêu cầu về công việc cũng cao hơn so với giảng dạy trong chương trình thông thường, do đó tham gia vào các chương trình này là cơ hội để ứng dụng những điều đm được học trước kia và là cơ hội hoàn thiện, phát triển bản thân. Bên cạnh đó, các giảng viên vẫn băn khoăn về việc các cơ hội làm việc không nhiều, chưa đủ để họ thực sự đầu tư và nỗ lực phát triển theo hướng này. Thực tế cho thấy, tìm kiếm các giảng viên làm việc trong các chương trình HTĐTQT thực sự đáp ứng được yêu cầu công việc không phải dễ dàng. Cũng có những người rất tâm huyết, làm việc theo đúng tinh thần chuyên nghiệp ở chuẩn mực cao, với tất cả sự tận tâm với học viên, sinh viên, song cũng có nhiều người tuy chuyên môn tốt, song tinh thần thái độ làm việc chuyên nghiệp chưa đủ. Thực tế, vẫn có khoảng cách lớn giữa giảng viên nước ngoài và giảng viên Việt Nam, chưa nói đến trình độ chuyên môn mà mới nói đến tác phong làm việc [24]. Làm việc trong các chương trình HTĐTQT quả thực là một thử thách, các giảng viên học hỏi được nhiều, trưởng thành lên nhiều, song cũng chịu nhiều áp lực hơn hẳn so với hệ thống đào tạo trong nước, nơi áp lực từ người học gần như không có bởi trong đó, sinh viên và học viên gần như không có quyền đòi hỏi và lựa chọn, ngược hẳn lại với các chương trình HTĐTQT, đặc biệt là những chương trình liên kết đào tạo với các yêu cầu cao, kể cả về kinh phí và yêu cầu học tập. Sau một thời gian làm việc, một số giảng viên chọn con đường im lặng không hợp tác, một số khác nói thẳng băn khoăn của mình “chuẩn bị rất nhiều công sức song chỉ làm việc vài buổi thì không bõ”; “giảng ở đây rất thích, song nếu mỗi năm chỉ có 1 lớp thì chẳng bõ công chuẩn bị”; có giảng viên chia sẻ sự tính toán của mình khi làm việc trong môi trường đào tạo hiện nay: “hmy chọn lấy một môn học nào đó nhiều nhu cầu, chuẩn bị một lần, sau đó tua đi tua lại, dù có hơi chán một tí, nhưng sẽ rất hiệu quả, xét về mặt kinh tế, và nhàn nhm...”. Tất nhiên, với bản chất của tầng lớp trí thức ở trình độ cao, đa số các giảng viên sẽ muốn hướng tới con đường phấn đấu cho những giá trị cao hơn, họ sẽ sẵn sàng đầu tư và trau dồi năng lực của mình, theo xu hướng hướng tới các chuẩn mực quốc tế


khi họ thấy được đó là xu hướng phát triển tất yếu trong tương lai. Vì thế, vai trò

định hướng của lmnh đạo các nhà trường ở đây sẽ là rất lớn. Lmnh đạo cần là người đưa ra định hướng phát triển của nhà trường để đội ngũ cán bộ giảng viên có thể hoạch định kế hoạch phát triển cá nhân một cách thích ứng, để có kế hoạch phấn đấu vươn tới các chuẩn mực cao nhất mà mình có thể phấn đấu

được. Khi giảng viên nhận thức được rằng cần phải tự đào tạo và phát triển bản thân mình và chia sẻ nhận thức đó với tất cả mọi người, sự thay đổi sẽ diễn ra một cách nhanh chóng hơn, trở thành một quá trình tự nhiên, không khiên cưỡng, và sẽ đem lại những tác động tốt tới sự thay đổi cho nền giáo dục đang bị coi là hết sức trì trệ của ta hiện nay. Ngược lại, nếu không nhiều người tự nhân thức

được sự cần thiết phải hướng tới những chuẩn mực cao đó, để tự mình thay đổi, thì bản thân mỗi người sẽ lại tự cộng thêm mình vào khối sức ì cần tác động từ bên ngoài vào để chuyển đổi, và như vậy, sức ì sẽ là rất lớn, sẽ khó có lực lượng bên ngoài nào có thể làm thay đổi được.

Như vậy, một sự phối hợp hợp lý hơn giữa phạm vi nhà trường và các đơn vị, cá nhân là điều cần thiết, để tất cả đều chia sẻ một định hướng phát triển chung, tạo động lực cho các cá nhân làm việc một cách tích cực. Nhà trường cần ghi nhận những hướng đi mới của các chương trình HTĐTQT đối với định hướng phát triển chiến lược của nhà trường trong xu thế tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế, phát huy những lợi ích của các chương trình trong định hướng ĐTPT đội ngũ giảng viên. Nên dành ưu tiên cho việc sử dụng nguồn lực đối với các chương trình này, như một biện pháp gia tăng hiệu quả làm việc của đội ngũ giảng viên:

ưu tiên dành nguồn lực cho các công việc có chất lượng cao trước.


Thực tế hiện nay, khi giảng viên tham gia chương trình, một mặt thấy không

đủ khối lượng công việc để đầu tư chuẩn bị thích đáng (Phụ lục), mặt khác nếu

được huy động nhiều thì lại luôn bị vướng vì lịch giảng dạy dày đặc, đặc biệt là cho các chương trình đào tạo tại chức và các chương trình ngắn hạn, dài hạn khác. Chủ trương phát triển của chương trình HTĐTQT chưa thực sự trở thành mục tiêu chiến lược của các nhà trường và chưa được dành ưu tiên về nguồn lực.


2.2.2.3. ĐTPT đội ngũ giảng viên thông qua các chương trình HTĐTQT - Nhìn từ thực tiễn phát triển nghề nghiệp của giảng viên

Nhìn vào quá trình đào tạo người giảng viên, có thể thấy việc các giảng viên

được theo học trong các chương trình đào tạo chuẩn quốc tế có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển nghề nghiệp của họ.

Các chương trình HTĐTQT với cách tiếp cận và triết lý đào tạo hiện đại, cùng các yêu cầu khá cao theo các chuẩn mực quốc tế là môi trường đào tạo và rèn luyện giảng viên theo hình thức “học qua thực hành” hiệu quả, không những chỉ về chuyên môn của môn học mà còn về kỹ năng giảng dạy. Các cách tiếp cận và triết lý đào tạo hiện đại chứa đựng trong nó những giá trị nhân văn sâu sắc và góp phần hiệu quả nâng cao nhận thức của giảng viên về vai trò của cá nhân và những xu hướng phát triển tất yếu, nghĩa là góp phần phát triển giảng viên một cách toàn diện.

Việc được theo học trong một chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, tiếp cận và lĩnh hội những lợi điểm nổi bật của các chương trình này, cho phép người giảng viên có được “chìa khóa” để mở cửa tham gia vào một sân chơi mới, rộng mở hơn sau này- sân chơi của các chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế. Ngoài mặt bằng về trình độ chuyên môn, “chìa khóa” đó còn bao gồm các yếu tố khác, như trình độ ngoại ngữ; các kỹ năng và phương pháp giảng dạy hiện đại, cách tiếp cận đào tạo và tác phong làm việc chuyên nghiệp.

Việc học tập trong các chương trình HTĐTQT cho giảng viên cơ hội tiếp nhận và trải nghiệm các nội dung chuyên môn, phương pháp giảng dạy và những phong cách làm việc mới. Sau đó, chính việc tham gia vào các chương trình với tư cách trợ giảng lại là bước tiếp theo quan trọng của quá trình học tập: bước thực hành và ứng dụng.

Trong số các chương trình HTĐTQT trong thời gian qua ở Việt Nam, có thể thấy đa số các giảng viên được đào tạo trong các chương trình ở bậc Thạc sĩ, và trong các chương trình được tài trợ: các chương trình Sida MBA. Sida MSc về Kinh tế Tài chính, chương trình SAV MBA, Cao học Hà Lan về Kinh tế Phát triển, các chương trình Diploma sau đại học về Kinh tế và quản lý cũng đm thu

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/01/2023