Lý Thuyết Nghiên Cứu, Câu Hỏi Nghiên Cứu, Giả Thuyết Nghiên Cứu


Thứ hai, bổ sung tiêu chí xác định điều kiện trong giao dịch có điều kiện. Trên cơ sở kế thừa những nội dung đã có, NCS tiếp tục nghiên cứu đưa ra các tiêu chí cụ thể để xác định sự kiện là điều kiện trong giao dịch có điều kiện.

Thứ ba, bổ sung các cách phân loại giao dịch có điều kiện trên thực tiễn. Ngoài những cách phân loại giao dịch có điều kiện đã được đánh giá trong các công trình trước đây, NCS tiếp tục nghiên cứu và bổ sung những cách thức phân loại khác về giao dịch có điều kiện.

Thứ tư, cụ thể hoá hơn về hợp đồng có điều kiện. Với NCS thì vấn đề này cần được quy định thành một nội dung cụ thể trong pháp luật dân sự Việt Nam. Với những điều luật được xây dựng trong BLDS năm 2015 là chưa tương xứng với thực tiễn phức tạp liên quan tới dạng hợp đồng đặc thù này. Vì vậy, trên cơ sở những lý luận đã có, NCS tiếp tục kế thừa và nghiên cứu trong luận án.

Thứ năm, xác định, bổ sung quy định về di chúc có điều kiện trong BLDS năm 2015. Di chúc là một giao dịch, do vậy, cũng cần được nghiên cứu để xác định di chúc có điều kiện hay di chúc không nên có điều kiện. Trong luận án của mình, NCS sẽ đi sâu phân tích nội dung này để từ đó có được một số kiến nghị về di chúc có điều kiện trong BLDS năm 2015.

Thứ sáu, bổ sung quy định về trách nhiệm pháp lý của các bên trong trường hợp điều kiện không được thực hiện hoặc được thực hiện một phần. Tương tự như di chúc có điều kiện, phần quy định trách nhiệm pháp lý của các bên trong việc thực hiện giao dịch có điều kiện là một trong những nội dung chưa được đề cập trong BLDS năm 2015.


3. Lý thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu


3.1. Lý thuyết nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 308 trang tài liệu này.


Trong quá trình thực hiện luận án, NCS sử dụng các học thuyết, lý thuyết nghiên cứu chủ đạo sau đây:

Giao dịch dân sự có điều kiện theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam - 6

+ Học thuyết tự do ý chí: Đây là học thuyết nền tảng của giao dịch. Học thuyết này cho phép các chủ thể tham gia giao dịch, tự do thể hiện ý chí của mình không phụ thuộc hoặc cản trở bởi bất kỳ một yếu tố nào khác, kể cả pháp luật. Quy định này xuất phát từ những lợi ích cá nhân và cho rằng nếu để các chủ thể tham gia vào giao dịch thì sẽ bảo đảm sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể. Khi giao dịch được xác lập thì không ai có quyền thay đổi, cả Nhà nước cũng không có quyền can thiệp và có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các bên tham gia. Trong cuốn sách “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên) chỉ ra rằng: Tất cả các loại giao dịch dân sự đều có một đặc điểm chung là sự thống nhất ý chí và sự bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Giao dịch dân sự là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Ý chí của chủ thể tham gia giao dịch là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của con người mà nội dung của nó được xác định bởi nhu cầu nhất định của bản thân họ. Ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các chủ thể khác biết được mục đích, động cơ và nội dung cụ thể của giao dịch dân sự. Đối với giao dịch dân sự có điều kiện được xác lập dựa trên sự tham gia của các chủ thể, vì vậy, ý chí chung, thống nhất giữa các chủ thể là cơ sở quan trọng để xác lập một giao dịch dân sự có điều kiện hợp pháp.


+ Học thuyết về sự dung hoà giữa tự do ý chí và lợi ích xã hội: xuất phát từ học thuyết tự do ý chí với tư tưởng tự do cá nhân vô giới hạn không thể điều chỉnh các mối quan hệ xã hội một cách công bằng khi con người sống quá phụ thuộc vào nhau với nhiều mối quan hệ phức tạp đan xen lẫn nhau. Để giải quyết vấn đề giữa cá nhân và cộng đồng, cần phải dung hòa thuyết tự do và thuyết xã hội bằng cách tôn trọng quyền tự do giao kết hợp đồng và chỉ giới hạn sự tự do này bởi những nguyên nhân chính đáng mà tiêu biểu là trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Học thuyết này có thể được hiểu là sự giới hạn của tự do ý chí. Nhà nước can thiệp vào giao dịch của các cá nhân. Tuy nhiên, việc can thiệp này là cần thiết bởi trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự đan xen phức tạp của lợi ích chung và lợi ích riêng, tự do ý chí dường như không giải quyết ổn thoả một số giao dịch mà đời sống thực tiễn đặt ra. Giao dịch dân sự có điều kiện được xác lập trên cơ sở ý chí chung, thống nhất của các bên cũng nằm trong giới hạn mà nhà nước cho phép. Bởi không vì muốn đạt được mục đích cá nhân mà ảnh hưởng tới lợi ích chung của toàn xã hội hoặc hành động trái với đạo đức xã hội. Do đó, quy định của pháp luật là kiểm soát giới hạn này của chủ thể tham gia giao dịch dân sự có điều kiện.

+ Lý thuyết về giao dịch dân sự: các chủ thể xác lập giao dịch nhằm tạo ra quan hệ ràng buộc để đạt được mục đích mà mình hướng tới. Trong quan hệ giao dịch, các bên có quyền bình đẳng, thực hiện những cam kết đã ghi nhận trong giao dịch và nếu một trong các bên vi phạm thì phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý do hành vi của mình gây ra. Bản chất của giao dịch dân sự có điều kiện cũng là một giao dịch dân sự, do vậy, giao dịch dân sự có điều kiện được nghiên cứu trong luận án cần thiết dựa trên cơ sở nền tảng là giao dịch dân sự nói chung.


3.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu


Dựa trên kết quả đánh giá tình hình nghiên cứu đề tài và dự kiến định hướng triển khai nghiên cứu đề tài luận án, NCS xác định các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu chủ yếu cần được chứng minh trong luận án như sau:

(i) Câu hỏi nghiên cứu 1: Giao dịch dân sự có điều kiện là gì? Khái niệm giao dịch dân sự có điều kiện và thực hiện nghĩa vụ có điều kiện, hợp đồng có điều kiện có gì khác nhau? Đặc điểm của giao dịch dân sự có điều kiện khác gì so với giao dịch dân sự?

Giả thuyết nghiên cứu 1: Hiện nay có những quan điểm, quan niệm khác nhau về giao dịch dân sự có điều kiện, thực hiện nghĩa vụ có điều kiện, hợp đồng có điều kiện. Dưới góc độ nghiên cứu, thực tiễn cần phải nghiên cứu để tìm ra bản chất của giao dịch dân sự có điều kiện.

(ii) Câu hỏi nghiên cứu 2: Những nội dung cơ bản nào cần được pháp luật điều chỉnh trong giao dịch dân sự có điều kiện?

Giả thuyết nghiên cứu 2: Hiện nay có nhiều nghiên cứu liên quan đến những nội dung cơ bản được điều chỉnh trong pháp luật về giao dịch dân sự có điều kiện ở Việt Nam. Có quan điểm cho rằng những nội dung này còn sơ sài và chưa bao quát các vấn đề của giao dịch dân sự có điều kiện, cụ thể là xác định điều kiện là sự kiện trong giao dịch dân sự có điều kiện như thế nào, các loại điều kiện là sự kiện được hiểu như thế nào, hiệu lực của giao dịch dân sự có điều kiện phát sinh hoặc huỷ bỏ như thế nào, trách nhiệm pháp lý của các bên như thế nào khi sự kiện là điều kiện trong giao dịch dân sự có điều kiện xảy ra hoặc không xảy ra,…. Có quan điểm khác cho rằng những nội dung này đáp ứng được với nhu cầu của thực tiễn, đảm bảo bản án.


(iii) Câu hỏi nghiên cứu 3: Pháp luật về giao dịch dân sự có điều kiện ở Việt Nam có những nội dung gì? Đánh giá pháp luật cho vấn đề này điều chỉnh hợp lý chưa và bất cập như thế nào trong thực tiễn áp dụng?

Giả thuyết nghiên cứu 3: Hiện nay có một số công trình nghiên cứu liên quan đến những bất cập trong pháp luật về giao dịch dân sự có điều kiện ở Việt Nam. Những bất cập xuất phát từ quy định về điều kiện là sự kiện trong giao dịch có điều kiện, khái niệm về hợp đồng có điều kiện, …

(iv): Câu hỏi nghiên cứu 4: Với những tồn tại và bất cấp đã được nghiên cứu, đánh giá thì cần có những yêu cầu, kiến nghị gì cho việc giải quyết những bất cập về giao dịch dân sự có điều kiện ở Việt Nam?

Giải thuyết nghiên cứu 4: Hiện nay giao dịch dân sự có điều kiện ở Việt Nam vẫn còn tồn tại những bất cập chưa được giải quyết hiệu quả. Điều này tác động lớn đến quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong giao dịch dân sự có điều kiện, các bản án xét xử tại toà còn nhận định sai về giao dịch dân sự có điều kiện.


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ ĐIỀU KIỆN

1.1. Khái quát về giao dịch dân sự


Theo từ điển Tiếng Việt thì giao dịch được hiểu là sự giao tiếp, tiếp xúc giữa hai hay nhiều đối tác với nhau. Dưới góc độ xã hội học, giao dịch chính là mối quan hệ giữa người với người, cùng là mối quan hệ phổ biến và lâu đời nhất trong xã hội loài người. Ngay từ khi xã hội loài người có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hoá thì giao dịch đã hình thành và giữ vai trò điều tiết các mối quan hệ xã hội. Có một thời, giao dịch nếu không đồng nghĩa với sự trao đổi tài sản nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của các bên, thì giao dịch được hiểu là quan hệ trong đó ít nhất một bên là thương nhân hoặc người giàu (người có nhiều của cải) và biện pháp thông qua đó, thương nhân hoặc người có của tích luỹ của cải cho mình12. Vì vậy, theo cách hiểu chung, giao dịch là sự trao đổi giữa hai hay nhiều đối tác với nhau nhằm thoả mãn mục đích của các bên.

Việc sử dụng thuật ngữ giao dịch dân sự (GDDS) trong pháp luật dân sự Việt Nam đã được thể hiện qua nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu luật. Giao dịch dân sự được hiểu là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của các chủ thể luật dân sự bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự13. Giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 được xác định là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát


12Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật dân sự Việt Nam, NXB Trẻ, TP.Hồ Chí Minh, trang 5.

13Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXb Công an nhân dân, trang 61.


sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Hiện nay, các nhà nghiên cứu tập trung đưa ra lập luận về việc sử dụng thuật ngữ GDDS.

Quan điểm thứ nhất cho rằng không cần thay đổi thuật ngữ GDDS vì thuật ngữ này được sử dụng tại Việt Nam từ thời kỳ đầu ban hành BLDS 1995, người dân đã quen thuộc với việc sử dụng thuật ngữ này. Quan điểm này cho rằng thống nhất và giữ nguyên sử dụng thuật ngữ GDDS trong BLDS năm 2015 đã có hiệu lực. Bởi bản chất của giao dịch dân sự và “hành vi pháp lý” là tương tự nhau, nhưng với người Việt Nam thì việc sử dụng thuật ngữ giao dịch dân sự đã gắn bó với thói quen của Việt Nam từ 20 năm nay (từ BLDS năm 1995)14.

Quan điểm thứ hai cho rằng nên sử dụng thuật ngữ “hành vi pháp lý” thay thế cho thuật ngữ GDDS để phù hợp với xu thế chung của thế giới. Bởi việc sử dụng thuật ngữ “giao dịch” không bao trùm được nội hàm được ghi nhận tại Điều 121 BLDS năm 2015. Việc sử dụng thuật ngữ “hành vi pháp lý” vì có sự tương thích với thế giới để từ đó có cách hiểu tương đồng với các thuật ngữ luật. Vì thuật ngữ “hành vi pháp lý” có bản chất không khác với thuật ngữ “giao dịch dân sự”15. Minh chứng cho quan điểm này cho thấy một số quốc gia đã ghi nhận việc sử dụng thuật ngữ “hành vi pháp lý”. Đó là BLDS và thương mại Thái Lan quy định tại Điều 112: “Những hành vi pháp lý là những hành vi tự nguyện, đúng pháp luật mà mục đích trực tiếp của những hành vi đó là thiết lập những quan hệ pháp lý giữa những thể nhân, pháp nhân nhằm thành lập, thay đổi, chuyển nhượng, bảo vệ hoặc chấm dứt



14Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, NXB Hồng

Đức, trang 142.

15 Bùi Thị Thanh Hằng và Nguyễn Thị Anh Thư (2014), Chế định giao dịch dân sự và vấn

đề sửa đổi bổ sung Bộ luật dân sự năm 2005, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, tập 30, số 1, trang 23-30.


các quyền”16. Hay trong BLDS Nhật Bản quy định khái quát về hành vi pháp lý là như thế nào nhưng đã sử dụng thuật ngữ “a juristic act” để thể hiện những giao dịch giữa các cá nhân, pháp nhân với nhau17. BLDS Pháp cũng quy định rò ràng tại Điều 1100-1 rằng: “các hành vi pháp lý được hiểu là biểu hiện của ý chí để tạo ra hiệu ứng luật. Các hành vi đó có thể là do thoả thuận giữa các bên hoặc đơn phơng. Để có hiệu lực và tác dụng, các hành vi pháp lý đó phải tuân theo các quy tắc điều chỉnh hợp đồng”18.

Quan điểm thứ ba thì cho rằng cần bỏ từ “dân sự” ra khỏi “giao dịch dân sự” vì việc sử dụng thuật ngữ “giao dịch dân sự” không có trên thế giới mà chỉ có Việt Nam, có thể chuyển đổi thành “giao dịch” hoặc “giao dịch pháp lý” để nhằm bao quát được những giao dịch thương mại. Việc sử dụng “giao dịch dân sự” hiện nay bị giới hạn là chỉ dành cho những giao dịch dân sự mà không bao gồm giao dịch thương mại. Tuy nhiên, cũng có nhận định cho rằng thương mại là một bộ phận của dân sự. Nên quy định giao dịch dân sự đã bao hàm cả giao dịch thương mại. Nhưng điều này chúng ta cần xem xét vì việc quy định hai văn bản khác nhau. Đó là BLDS năm 2015 điều chỉnh những quan hệ dân sự và Luật thương mại năm 2005 điều chỉnh những quan hệ thương mại. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật khác như Luật đầu tư năm 2014 cũng thuộc quan hệ thương mại nhưng được điều chỉnh ở văn bản chuyên ngành. Việc sử dụng thuật ngữ “giao dịch dân sự” trong BLDS là không chính xác bởi lẽ người ta thường sử dụng thuật ngữ “giao dịch dân sự” hay “hành vi dân sự” để phân biệt với “giao dịch thương mại” hay “hành vi thương mại”, trong khi đó BLDS áp dụng cho cả quan hệ dân sự, hôn nhân và


16 BLDS và thương mại Thái Lan (1995), Các quyển I - VI - Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia.

17Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1995), Bình luận Bộ luật dân sự Nhật Bản, NXB chính trị quốc gia, năm 1995, trang 175.

18Đại học Luật Hà Nội (2016), Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Những nội dung sửa đổi BLDS của Cộng Hoà Pháp về nghĩa vụ và hợp đồng”, Hà Nội.

Xem tất cả 308 trang.

Ngày đăng: 12/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí