Thanh D, anh Đinh Xuân H, chị Đinh Thị N và anh Đinh Hồng Q yêu cầu ông H tháo dỡ nhà xây dựng tại đường C để trả lại đất cho gia đình.
Tại Bản án dân sự số 03/2015/DS-ST ngày 05/6/2015, Tòa án nhân dân
huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum quyết định:
Tuyên bố “Giao dịch sân sự có điều kiện về việc làm hồ sơ, giấy tờ đất được giao kết giữa ông Nguyễn Văn H với chị Đinh Thị T và anh Lê Văn P thời gian từ năm 2004 đến năm 2005” và “ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giao kết vào ngày 20/12/2004 giữa bên chuyển nhượng anh Lê Văn P và chị Đinh Thị T, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn H và bà Hà Thị H” vô hiệu.
Bác yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn là ông Nguyễn Văn H và bà Hà Thị H đối với bị đơn về “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao kết ngày 20/12/2004”.
Về giải quyết hậu quả của các hợp đồng vô hiệu: Chấp nhận tự nguyện của bị đơn là chị Đinh Thị T trả cho ông Nguyễn Văn H và bà Hà Thị H các khoản nộp thuế vào các ngày 24/12/2004 là 14.916.660 đồng + 14.032.847 đồng, tiền lãi của số tiền nộp thuế tính từ ngày 24/12/2004 đến thời điểm xét xử sơ thẩm vào ngày 05/6/2015, tổng = 28.949.507 đồng (hai mươi tám triệu, chín trăm bốn mươi chín ngàn, năm trăm không bảy đồng).
Chấp nhận một phần yêu cầu đòi tiền xây nhà của ông Nguyễn Văn H tại đường C: Buộc chị Đinh Thị T phải trả cho ông Nguyễn Văn H số tiền 45.038.700 đồng. Đồng thời giao cho chị Đinh Thị T được quyền sở hữu toàn bộ diện tích nhà và công trình phụ ông Nguyễn Văn H đã xây dựng vào năm 2005 trên phần diện tích đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G164833 mang tên hộ bà Đinh Thị H1, cấp ngày 27/12/1995, vị trí ông Nguyễn Văn H xây dựng nhà và công trình phụ tại đường C, tổ dân phố A, thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí giám định và định giá tài sản, nghĩa vụ chậm thi hành án và án phí.
Ngày 19/6/2015, chị Đinh Thị T kháng cáo một phần bản án.
Ngày 19/6/2015, ông Nguyễn Văn H và bà Hà Thị H kháng cáo toàn bộ
Có thể bạn quan tâm!
- Đại Diện Theo Ủy Quyền Của Bị Đơn - Bà Truơng Thị Th Trình Bày :
- Bị Đơn : Ông Phạm Thanh H1 , Sinh Năm 1967, Có Mặt; Trú Tại: Tổ 1, Ấp L, Xã Lv, Huyện Ct, Tỉnh Tây Ninh, Có Mặt.
- Giao Cho Ông H1 Được Tiếp Tục Quản Lý, Sử Dụng Phần Đất Này. Ông H1 Có Trách Nhiệm Đăng Ký, Kê Khai Để Cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất
- Giao dịch dân sự có điều kiện theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam - 38
Xem toàn bộ 308 trang tài liệu này.
bản án.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2015/DS-PT ngày 22/12/2015, Tòa
án nhân dân tỉnh Kon Tum quyết định:
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với toàn bộ kháng cáo của chị T.
- Chấp nhận đơn kháng cáo của bà Hiền và ông Hậu.
+ Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015/DS-ST ngày
05/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi.
3
+ Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn H và bà Hà Thị H về việc yêu cầu chị Đinh Thị T phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ông Nguyễn Văn H, bà Hà Thị H và chị Đinh Thị T ký kết vào ngày 20/12/2004.
+ Buộc chị Đinh Thị T phải thanh toán cho ông Nguyễn Văn H và bà Hà
Thị H số tiền 500.000.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về nghĩa vụ chậm thi
hành án và án phí.
Ngày 19/01/2016, bà Đinh Thị T có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.
- Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 23/2017/KN-DS-VC2 ngày 04/4/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2015/DSPT ngày 22/12/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015/DS-ST ngày 05/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
- Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015/DS-ST ngày 05/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Nguồn gốc thửa đất của chị Đinh Thị T đứng tên chủ sử dụng hiện nay tại đường A là do ông Đinh Thanh D (là cha ruột chị T) khai hoang năm 1992, đến ngày 30/12/1995 thì hộ bà Đinh Thị H1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp (ông D là thành viên trong hộ). Ngày 24/12/2002, ông Đinh Thanh D có đơn kiến nghị đến Ủy ban nhân dân huyện N, Phòng Địa chính huyện N và Ủy ban nhân dân thị trấn P đề nghị hợp thức đất cho con gái là Đinh Thị T. Chị T có đơn xin xác nhận để xin được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đơn xin hợp thức đất thổ cư. Tuy nhiên, do chị Tuyết không có tiền để thực hiện thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng và cấp giấy chứng nhận nên chị có thỏa thuân với ông H về việc ông H chịu trách nhiệm làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đất thổ cư). Tuy nhiên, chị T và vợ chồng ông H trình bày có sự mâu thuẫn, không thống nhất về việc thỏa thuận miệng với nhau khi làm thủ
4
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở cho chị T và tách đất cho ông H.
Ông H đã nộp thuế thay cho chị T là 14.916.660 đồng; giá trị Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20/12/2004 là 58.000.000 đồng; trong đó giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 50.000.000 đồng, giá trị chuyển nhượng tài sản trên đất là 8.000.000 đồng. Như vậy, các bên chưa thực hiện xong hợp đồng đã ký kết. Căn cứ vào kết quả giám định, xác định chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là của chị T nên chị T trình bày mình không biết ký vào hợp đồng lúc nào là không có cơ sở. Tuy nhiên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa các bên trong khi chị T, anh P chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chữ ký trong hợp đồng không phải của anh P; hợp đồng không được cấp có thẩm quyền công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật là vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 131, Điều 133, Điều 136, Điều 691, Điều 692, khoản 1 Điều 693 và Điều 696 của Bộ luật dân sự năm 1995; điểm a khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127 của Luật đất đai năm 2003, nên bị vô hiệu.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố giao dịch dân sự có điều kiện về việc làm hồ sơ, giấy tờ được giao kết giữa ông Nguyễn Văn H với chị Đinh Thị T và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là anh Lê Văn P và chị Đinh Thị T với bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn H và bà Hà Thị H vô hiệu là có căn cứ. Tuy nhiên, khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định giá trị thiệt hại và đánh giá mức độ lỗi của các bên để làm căn cứ xác định bồi thường, mà giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu tính theo mức lãi suất ngân hàng là không đúng với quy định tại điểm c.3 tiểu mục 2.3 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc xác định thiệt hại khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký năm 2004, chị T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2006 nên căn cứ vào hướng dẫn tại tiết b.2 tiểu mục 2.3 mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì không bị vô hiệu là không đúng, vì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giao kết sau ngày Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực. Do vậy, không thể áp dụng điểm b.2 mục 2 phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 để cho rằng hợp đồng có hiệu lực pháp luật vì điểm b.2 tiểu mục
2.3 phần II Nghị quyết nêu trên chỉ áp dụng đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết trước ngày 01/7/2004 (trước ngày Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành) và sau ngày 01/7/2004 mới phát sinh tranh chấp. Còn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H và bà H với chị T
5
được ký vào ngày 20/12/2004, nên không bị điều chỉnh bởi qui định nêu trên của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP nêu trên.
Mặt khác, ông H mới nộp thuế cho chị T số tiền 14.916.660 đồng; giá trị chuyển nhượng tại Hợp đồng lập ngày 20/12/2004 là 58.000.000 đồng, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại tuyên buộc chị T phải trả cho ông H và bà H số tiền 500.000.000 đồng theo yêu cầu của ông H và bà H là không đúng, gây thiệt hại cho bị đơn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337; khoản 3 Điều 343; Điều 345 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015.
1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2015/DSPT ngày 22/12/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum và Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015/DS-ST ngày 05/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum về vụ án dân sự “Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đòi lại tiền xây nhà” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn H và bà Hà Thị H với bị đơn là chị Đinh Thị T.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum
để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum
(02 bản kèm hồ sơ vụ án để xét xử sơ thẩm lại);
- Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- Vụ GĐKT II - Tòa án nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hồi, tỉnh
Kon Tum;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: Phòng HCTP, Phòng GĐKT về DS-LĐ- KDTM và hồ sơ vụ án.
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
Phó Chánh án – Chủ tọa phiên tòa
Lê Thị Ngọc Hà
6
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 458/2017/DS-ST Ngày: 27/9/2017
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
V/v tranh chấp hơp đồng dân sự
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Cao Thị Hiền Lũy
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Phan Thị Mai Hương
2. Ông Chu Mạnh Tường
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị Như Khương - Kiểm sát viên.
Thư ký phiên tòa: Bà Trần Nguyên Hà - Thư ký Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 27/9/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 147/2017/TLST-DS ngày 10/4/2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự - đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 553/2017/QĐXXST-DS ngày 18/8/2017; Quyết định hoãn phiên toà số 363/2017/QĐST-DS ngày 11/9/2017, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1958
Địa chỉ: số nhà 15 Đường số V, Khu phố X, phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
Bị đơn: Bà Phan Thị Minh C, sinh năm: 1977
Địa chỉ: số nhà 35 B đường M, Khu phố N, phường P, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 24 tháng 3 năm 2017 và lời trình bày của nguyên
đơn bà Nguyễn Thị T:
Ngày 15/4/2016 bà và bà Phan Thị Minh C đã ký hợp đồng đặt cọc mua bán nhà ở và quyền sử dụng đất ở với nội dung thoả thuận bà C đồng ý chuyển nhượng cho bà quyền sử dụng đất có diện tích 315 m2, thuộc một phần thửa 6, 8, 39, tờ bản đồ số 10, 57 tại địa chỉ phường P, quận Z, Thành phố Hồ Chí
Minh với giá 2.300.000.000 đồng, đặt cọc 300.000.000 đồng, còn lại 2.000.000.000 đồng sẽ giao đủ sau khi bà được công nhận là chủ sử dụng thửa đất (đăng bộ sang tên). Trường hợp đất thuộc quy hoạch thì bà C phải trả lại tiền đặt cọc và nếu đổi ý không bán sẽ phải bồi thường gấp đôi số tiền đặt cọc, nếu bà không mua sẽ mất tiền đặt cọc. Thời điểm ký hợp đồng bà C đang nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên có thoả thuận ngày 17/8/2016 (ngày bà C nhận giấy chứng nhận) sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng tại Phòng công chứng theo đúng quy định. Sau đó bà được bà C thông báo việc cấp giấy chứng nhận bị chậm trễ và bà đồng ý kéo dài thời gian ký kết hợp đồng. Đến nay bà C đã chuyển nhượng đất cho người khác nên bà yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng đặt cọc mua bán nhà ở và quyền sử dụng đất, yêu cầu bà C hoàn trả 300.000.000 đồng tiền đặt cọc và bồi thường (phạt cọc) 300.000.000 đồng vì bà C đã vi phạm hợp đồng.
Tại bản tự khai ngày 23 tháng 5 năm 2017 và lời trình bày của bị đơn bà
Phan Thị Minh C:
Việc thoả thuận ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giao nhận tiền đặt cọc đúng như bà T trình bày. Hai bên thống nhất ngày 17/8/2016 sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng tại phòng công chứng nhưng do thời gian này bà chưa nhận được giấy chứng nhận nên không thực hiện được. Ngày 22/9/2016 khi nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà đã thông báo cho bà T biết và đề nghị bà T ký hợp đồng nhưng bà T đưa ra nhiều lý do để trì hoãn việc ký hợp đồng. Đến tháng 3/2017 bà T vẫn trả lời chưa có đủ tiền nên bà đã chuyển nhượng đất cho người khác, sau đó bà T có yêu cầu bà hoàn trả tiền đặt cọc nhưng bà chưa có tiền nên chưa trả. Bà đồng ý hoàn trả cho bà T số tiền đặt cọc 300.000.000 đồng nhưng hiện tại bà chưa có tiền nên đề nghị hoàn trả vào tháng 12/2017. Không đồng ý bồi thường tiền đặt cọc vì bà T đã cố tình kéo dài thời gian ký hợp đồng gây thiệt hại cho bà.
Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Toà án đã thực hiện các trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp hơp̣ đồng dân sự - đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” được quy định tại
Khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Do tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà quyền sử dụng đất toạ lạc tại quận Thủ Đức nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm c Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung: Nguyên đơn và bị đơn khai thống nhất về việc thoả thuận ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/4/2016 và đồng ý hủy hợp đồng, tuy nhiên có tranh chấp đối với số tiền bồi thường (phạt cọc). Để xem xét yêu cầu của các bên, Hội đồng xét xử cần xác định lỗi dẫn đến việc không tiếp tục thực hiện hợp đồng. Bị đơn thừa nhận tại thời điểm ký hợp đồng đặt cọc, đất đang chờ Uỷ ban nhân dân quận Thủ Đức cấp giấy chứng nhận nên mới thoả thuận ngày 15/8/2016 là ngày bị đơn được cấp giấy chứng nhận sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng theo quy định. Như vậy thoả thuận giữa các bên là giao dịch dân sự có điều kiện, việc chuyển nhượng sẽ được tiến hành khi bị đơn được công nhận quyền sử dụng đất. Mặc dù thoả thuận ngày ký kết hợp đồng là ngày 15/8/2016, tuy nhiên trong quá trình xem xét cấp giấy chứng nhận, bản vẽ đất có sai sót nên cơ quan có thẩm quyền yêu cầu bị đơn tiến hành đo đạc lập bản vẽ mới đã làm chậm trễ việc cấp giấy chứng nhận, dẫn đến hai bên không thể ký kết hợp đồng vào thời gian đã thoả thuận. Đây là lý do khách quan và nguyên đơn đã đồng ý chờ bị đơn được cấp giấy chứng nhận sẽ ký hợp đồng. Ngày 22/9/2016, bị đơn đã được Uỷ ban nhân dân quận Thủ Đức cấp giấy chứng nhận công nhận quyền sử dụng đất số CD 175036, công nhận toàn bộ diện tích đất mà hai bên thoả thuận chuyển nhượng. Do bị đơn không chứng minh được đã thông báo cho nguyên đơn về việc được cấp giấy chứng nhận cũng như thời gian ký kết hợp đồng nên không có cơ sở xem xét đối với đề nghị của bị đơn cho rằng việc không tiếp tục thực hiện hợp đồng là do lỗi của nguyên đơn. Do sau khi được cấp giấy chứng nhận, bị đơn đã chuyển nhượng đất cho người khác, bị đơn đã làm thay đổi nội dung thoả thuận, không tiếp tục thực hiện hợp đồng với nguyên đơn nên bị đơn có lỗi. Theo thoả thuận tại Điều III của hợp đồng thì ngoài việc hoàn trả tiền đặt cọc, bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn bằng số tiền đã đặt cọc.
Vì vậy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức là phù hợp, có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.
Án phí dân sự sơ thẩm: Do chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm c Khoản 1
Điều 39; Khoản 1 Điều 147; Khoản 1, Khoản 2 Điều 269; Điều 271 và Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 328; Điều 357; Điểm b Khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015;
Áp dụng Luật phí và lệ phí;
Áp dụng Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T về việc “Tranh chấp hơp
dân sự - đặt cọc” đối với bà Phan Thị Minh C;
đồng
Huỷ hợp đồng đặt cọc mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất do bà Nguyễn Thị T và bà Phan Thị Minh C ký kết ngày 15/4/2016;
Bà Phan Thị Minh C có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng và bồi thường 300.000.000 đồng (ba trăm triệu) đồng, tổng cộng 600.000.000 (sáu trăm triệu) đồng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu bên phải thi hành án không thi hành án, thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi trên số tiền chưa thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Án phí sơ thẩm:
Bà Phan Thị Minh C phải chịu 28.000.000 (hai mươi tám triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bà Nguyễn Thị T được nhận lại 14.000.000 (mười bốn triệu) đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0015145 ngày 10/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Quyền và thời hạn kháng cáo:
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hánh án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Nơi nhận:
- TAND TP.HCM;
- VKSND Q.Thủ Đức;
- CCTHADS Q.Thủ Đức;
- Đương sự;
- Lưu: VP, Hồ sơ
.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TÒA
(đã ký)
Cao Thị Hiền Lũy