Đánh Giá Chung Về Công Tác Giải Quyết Khiếu Nại Về Đất Đai Trên Địa Bàn Tỉnh Bắc Giang

đất lấn chiếm, hạn mức và thực tế sử dụng v..v..) thực tế giá bồi thưòng quá thấp so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường, tuy có tác động tích cực tới việc khuyến khích nhà đầu nhưng lại gây ra những phản ứng gay gắt của những người đất bị thu hồi.

Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích nhà nước với lợi ích của những người có đất bị thu hồi, thường chỉ nhấn mạnh đến môi trường đầu tư, đến tính cấp thiết của việc giải phóng mặt bằng để có được dự án, nóng vội giải phóng mặt bằng đề giao đất, cho thuê đất chưa chú ý đến những vấn đề xã hội nảy sinh sau khi thu hồi dẫn tới không bảo đảm điều kiện tái định cư, không có đất sản xuất, đời sống khó khăn; chấp hành chưa đầy đủ các quy định của Nhà nước về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Nguyên nhân thứ ba sự bất cập trong công tác tổ chức, thi hành pháp luật về đất đai

Công tác quản lý đất đai, hồ sơ địa chính chưa được quan tâm đúng mức, chưa đầy đủ, việc quản lý đất đai gặp nhiều khó khăn. Công tác quy hoạch sử dụng đất chậm, việc chỉnh lý biến động đất đai chưa được thực hiện thường xuyên dẫn đến việc tham mưu không đầy đủ, thiếu chính xác trong việc quy hoạch, thu hồi và giải quyết khiếu nại về đất đai.

Nhiều địa phương chưa có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết, không đủ kinh phí, tài liệu, bản đồ để lập quy hoạch chi tiết gắn với thửa đất dẫn tới tùy tiện trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.

Chưa có sự đầu tư kinh phí thỏa đáng để xây dựng hệ thống bản đồ và hồ sơ địa chính bảo đảm quản lý chặt chẽ đối với từng thửa đát. Công tác cấp GCNQSD đất chậm và trong một số trường hợp không chính xác.

Công tác kiểm tra việc sử dụng đất chưa được quan tâm đúng mức, trong đó kiểm tra đối với các dự án, công trình sau khi được giao đất, cho

thuê đất còn hạn chế. Tình trạng sử dụng đất không đúng mục đích, không đúng tiến độ, không đầu tư theo dự án mà chỉ chuyển nhượng hưởng chênh lệch giá ít được phát hiện và xử lý kịp thời.

Nguyên nhân thứ tư, sự thiếu ý thức chấp hành pháp luật của một số cán bộ và một số công dân.

Một số cán bộ vi phạm chính sách, pháp luật đất đai để trục lợi, quan liêu thiếu tinh thần trách nhiệm trong thi hành công vụ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Nhận thức của người dân về chính sách, pháp luật đất đai và pháp luật về khiếu nại tố cáo nhìn chung còn nhiều hạn chế. Tình trạng lấn chiếm đất đai diễn ra phổ biến, việc chuyển nhượng trao tay trong nhân dân không tuân theo quy định của pháp luật làm phát sinh các khiếu kiện khó giải quyết. Nhiều trường hợp người dân mặc dù hiểu rõ các quy định của pháp luật, song cố tình không chấp hành những quy định đã giải quyết đúng pháp luật; một số trường hợp bị kích động hoặc lợi dụng việc khiếu kiện để kích động khiếu nại đông người, gây sức ép đối với cơ quan Nhà nước nhưng việc xử lý không nghiêm.

Nguyên nhân thứ năm, việc tuyên truyền các chính sách, quy định của pháp luật ở một số địa phương, đơn vị chưa được chú trong, hiệu quả chưa cao. Đặc biệt, cấp xã, phường, thị trấn là chính quyền gần dân nhất, mọi thắc mắc, nguyện vọng của người dân đều được phản ánh trực tiếp, tuy nhiên việc tuyên truyền và hướng dân người dân thực hiện các quy định về đất đai ở cấp xã còn nhiều hạn chế.

Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai - Qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang - 9

2.2.4. Đánh giá chung về công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang

2.2.4.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, xác định được mục đích và ý nghĩa của công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Công tác tiếp dân, giải quyết KNTC được Tỉnh uỷ, UBND tỉnh tiếp tục

quan tâm có nhiều biện pháp chỉ đạo quyết liệt, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác giải quyết KNTC; sớm tổ chức Hội nghị quán triệt, đồng thời ban hành văn bản chỉ đạo việc quán triệt, triển khai Luật Tiếp công dân và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên về công tác tiếp công dân, giải quyết KNTC; sớm triển khai và thực hiện Đề án Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn của Chính phủ; Chủ tịch UBND tỉnh tiếp tục duy trì giao ban hàng tháng về công tác giải quyết KNTC. Chỉ đạo tập trung cao kiểm tra, rà soát, giải quyết các vụ việc KNTC phức tạp, đông người. Các huyện, thành phố đã chủ động xây dựng Kế hoạch kiểm tra, rà soát các vụ việc thuộc thẩm quyền; Đã làm tốt công tác phối hợp với Uỷ ban Mặt trận tổ quốc, Hội Nông dân và các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp trong giải quyết KNTC. Công tác tiếp dân tại cấp tỉnh và cấp huyện được duy trì nghiêm túc; Việc giải quyết KNTC cơ bản tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục; kết quả giải quyết đơn và thực hiện quyết định, kết luận đạt tỷ lệ cao; Một số vụ việc phức tạp, kéo dài được chỉ đạo kiểm tra, rà soát lại, tổ chức đối thoại, công khai kết quả giải quyết,... hiện công dân đã chấm dứt khiếu kiện

Thứ hai, trụ sở Tiếp công dân của UBND tỉnh, UBND các huyện, thành phố và địa điểm tiếp công dân các Sở, cơ quan thuộc UBND tỉnh được bố trí đảm bảo theo quy định. Đối với cấp xã: Theo báo cáo của UBND các huyện, thành phố còn một số xã (ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn) chưa bố trí được địa điểm tiếp công dân riêng; cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu.

Thứ ba, về bố trí công chức làm công tác tiếp công dân: Việc bố trí công chức làm công tác tiếp công dân ở cấp tỉnh, các sở và cấp huyện đã đảm bảo yêu cầu theo quy định. Tại cấp xã: Hầu hết đã bố trí công chức Tư pháp 2 kiêm nhiệm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư theo chỉ đạo của tỉnh. Tuy

nhiên hiện vẫn còn 18/230 đơn vị chưa bố trí công chức Tư pháp kiêm nhiệm công tác tiếp công dân.

Thứ tư, về chi trả chế độ bồi dưỡng cho cán bộ tiếp dân: Có 09 sở, cơ quan thuộc UBND tỉnh và 10/10 huyện, thành phố đã thực hiện việc chi trả chế độ cho cán bộ làm công tác tiếp dân, xử lý đơn. Tại cấp xã: Tính đến ngày 01/11/2014, có 73/230 xã, phường, thị trấn thực hiện được việc chi trả tiền chế độ hỗ trợ cho cán bộ làm công tác tiếp dân. Lý do: Một mặt do không có nguồn kinh phí; mặt khác ở nhiều xã, thị trấn (kể cả một số sở) số vụ việc phát sinh và thời gian tiếp dân ít chưa đủ điều kiện để được hưởng chế độ.

Thứ năm, UBND các cấp đã thực hiện tốt công tác phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và Hội Nông dân cùng cấp trong việc tổ chức tiếp dân, giải quyết KNTC. Ủy ban MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội đã tích cực phối hợp với chính quyền các cấp trong việc hòa giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; vận động, thuyết phục các thành viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân chấp hành pháp luật về KNTC, thực hiện các quyết định, kết luận giải quyết KNTC đã có hiệu lực pháp luật; chỉ đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Qua đó đã góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết KNTC.

Thứ sáu, trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh, các huyện, thành phố đã xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện. Một số huyện thành lập Tổ công tác để kiểm tra, rà soát, giải quyết các vụ việc KNTC phức tạp thuộc thẩm quyền; ban hành Chỉ thị về công tác tiếp dân, giải quyết KNTC. Điển hình là huyện Tân Yên đã xây dựng Kế hoạch, trong đó Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan tiến hành công bố công khai tại nơi cư trú về quá trình giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một số vụ việc công dân cố tình KNTC phức tạp, kéo dài, qua đó đã có sự tác động tích cực đến các đối tượng này.

2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Về hạn chế:

- Việc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai còn có một số vụ việc không thống nhất về việc áp dụng chính sách, pháp luật giữa các cơ quan tham mưu giải quyết, giữa cấp tỉnh và huyện, thành phố.

- Một số nơi giải quyết khiếu nại lần đầu chưa đảm bảo về trình tự thủ tục; một số vụ việc giải quyết không ban hành quyết định giải quyết; việc tổ chức đối thoại trong giải quyết khiếu nại lần đầu hiệu quả chưa cao. Các biện pháp chế tài để triển khai thực hiện các kết luận, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chưa đủ mạnh, làm cho kết luận, quyết định giải quyết chưa được thực hiện nghiêm.

- Công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thủ trưởng đơn vị trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại ở một số địa phương, đơn vị đôi khi còn mang tính hình thức, chiếu lệ. Một số vụ việc giải quyết còn đơn giản, chủ quan, thiếu thực tế.

- Một số vụ việc tranh chấp, khiếu nại về đất đai mặc dù các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương đã nỗ lực cố gắng vận dụng chính sách giải quyết có lý, có tình, phù hợp với tình hình thực tế và đúng với quy định của pháp luật, đã được đối thoại trực tiếp nhiều lần nhưng do nhiều động cơ khác nhau người khiếu nại vẫn cố tình đeo bám khiếu kiện và làm cho tình hình trở lên phức tạp hơn.Nhiều vụ công dân biết quyết định của cơ quan nhà nước đúng nhưng vẫn cố tình không chấp hành, sao chụp đơn gửi nhiều nơi, nhiều cấp, nhiều ngành để gây áp lực đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Một số công dân lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, gây rối làm mất an ninh trật tự và làm cho tình hình phức tạp thêm.

- Một bộ phận cán bộ, công chức làm một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai tinh thần trách

nhiệm đối với công việc chưa cao, năng lực còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết khiếu nại, gây bức xúc cho công dân.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên: Nguyên nhân khách quan:

- Hệ thống pháp luật quy định về giải quyết khiếu nại tố cáo thiếu đồng bộ, còn chồng chéo. Luật Khiếu nại và luật Đất đai có các quy định không thống nhất trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai.

- Một số vụ việc xảy ra lâu ngày nhưng do quá trình lưu trữ hồ sơ, tài liệu không tốt nên gây khó khăn khi giải quyết. Mặt khác, do có sự thay đổi của pháp luật về đất đai, về khiếu nại tố cáo trong từng thời điểm, sự thay đổi về chủ sử dụng đất cũng là nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết khiếu nại tố cáo, tranh chấp đất đai gặp khó khăn.

- Ý thức chấp hành pháp luật về khiếu nại tố cáo của một số người dân không cao. Một số vụ việc,người khiếu nại không hợp tác với cơ quan giải quyết khi không đạt được yêu cầu mong muốn của họ (mời lên nhiều lần nhưng không đến làm việc, không tham gia đối thoại trong quá trình giải quyết) và tiếp tục gửi đơn khiếu nại tố cáo lên cấp trên. Có trường hợp không tin vào kết quả giải quyết của cơ sở nên gửi đơn khiếu nại tố cáo vượt cấp.

- Cơ chế chuyển toàn bộ vụ việc tranh chấp đất đai có giấy tờ sang Tòa án nhân dân, khuyến khích chuyển khiếu nại về quyết định hành chính, hành vi hành chính sang khởi kiện ra Tòa án hành chính có ưu điểm là nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền nhưng trên thực tế số đông công dân không muốn khởi kiện vụ việc tại Tòa án.

- Cơ chế, chính sách hiện nay chưa chú ý đúng mức đến quyền lợi người dân, chưa đảm bảo cuộc sống ổn định của người dân có đất được chuyển đổi mục đích sử dụng; chưa có tiêu chí rõ ràng để xác định đất đã sử

dụng ổn định; chưa phân biệt giữa việc lấn, chiếm đất với việc khai thác đất, khai hoang, phục hóa; chưa phân biệt rõ chính sách thu hồi đất giao cho doanh nghiệp làm khu công nghiệp, trụ sở, khu du lịch, xây dựng nhà ở để kinh doanh... Giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng cùng một dự án nhưng bồi thường giai đoạn trước giá thấp, giai đoạn sau giá cao hơn; cùng một cánh đồng, khu đất nhưng phần thuộc thành phố, thị xã thì bồi thường giá cao, phần thuộc huyện thì đền bù giá thấp; cùng một khu đất nhưng các công trình của nhà nước thì đền bù giá thấp hơn so với các dự án của nhà đầu tư; cùng một vị trí đất nhưng có nhiều cách xác định khác nhau.

Các quy định về giá bồi thường thay đổi thường xuyên dẫn đến tình trạng không công bằng như: những người gương mẫu chấp hành tốt chủ trương, chính sách thì được nhận tiền bồi thường thấp trong khi những người cố tình không chấp hành, chây ỳ thì được giải quyết giá bồi thường cao hơn. Nhiều trường hợp các hộ dân bị thu hồi đất những năm trước đây do giá bồi thường thấp, không được quan tâm giải quyết việc làm, tái định cư hoặc sử dụng tiền đền bù không có hiệu quả nay rơi vào hoàn cảnh khó khăn, bần cùng cũng là nguyên nhân bức xúc dẫn đến khiếu nại, tố cáo.

- Mặt khác, theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 thì quyết định giải quyết khiếu nại lần hai là quyết định có hiệu lực thi hành, công dân không có quyền khiếu nại nữa, nhưng trên thực tế nhiều quyết định giải quyết khiếu nại lần hai vẫn phải xem xét lại (thông qua các việc rà soát theo chỉ đạo của Chính phủ) như vậy lại tạo ra một tiền lệ là giải quyết tiếp khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai.

- Cơ sở pháp lý thực hiện giải quyết khiếu nại đất đai hiện nay vừa được quy định trong Luật Khiếu nại, vừa được quy định trong Luật đất đai nhưng công tác tuyên truyền, phổ biến, giải đáp pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng, nên một số người dân gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền khiếu nại khi quyền, lợi ích hợp pháp trong lĩnh vực đất đai bị xâm phạm.

Nguyên nhân chủ quan:

- Một số nơi, cấp ủy, chính quyền đôi lúc còn coi nhẹ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chưa huy động được vai trò của các tổ chức quần chúng, chưa phát hiện giải quyết kịp thời, có nơi có biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm, thiếu thống nhất, tập trung, chú trọng vào vấn đề phát triển kinh tế của địa phương, chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đê xã hội phát sinh từ vấn đề thu hồi đất như: tái định cư, đời sống, việc làm, nghề nghiệp..

- Công tác hòa giải ở cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, nhiều địa phương không bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm đảm nhiệm công việc này nên việc hòa giải đạt hiệu quả chưa cao. Một bộ phận đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo về đất đai còn yếu kém về năng lực.

- Lực lượng trực tiếp giúp cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chưa được phân công nhiệm vụ rành mạch. Việc phân công thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân các cấp giải quyết khiếu nại, tranh chấp về đất đai cũng không thống nhất: ở cấp tỉnh có vụ việc giao cho Thanh tra tỉnh, có vụ việc giao cho Sở tài nguyên và môi trường; ở cấp huyện có nơi giao cho Thanh tra huyện, có nơi giao cho phòng Tài nguyên và môi trường.

2.2.4.3. Một số kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết khiếu nại về đất đai ở Bắc Giang

Ở đâu có cấp ủy, chính quyền quan tâm lãnh đạo và làm tốt công tác quản lý nhà nước về đất đại, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở thì ở đó ít phát sinh khiếu kiện, tranh chấp đất đai.

Cần tăng cường thanh tra, kiểm tra việc quản lý và sử dụng đất đai ngăn ngừa và xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm.

Giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo về đất đai phải căn cứ vào thời

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 16/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí