cũng như đa dạng hoá khách hàng.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì dư nợ cho vay của NHNT với các thành phần này còn rất nhỏ. Nguyên nhân là do: khi các doanh nghiệp này có nhu cầu về vốn họ thường tìm đến làm việc với các ngân hàng nước của họ đang hoạt động ở Việt Nam với tâm lý: họ sẽ gặp thuận lợi hơn, ưu đãi hơn trong việc xin tài trợ. Lí do khác là: các doanh nghiệp nước ngoài khi sang kinh doanh tại Việt Nam ( nhất là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
) thường các công ty con hay là một chi nhánh nhỏ của một công ty đa quốc gia hoặc xuyên quốc gia. Vì vậy vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất ở các công ty này thường là do vốn lưu chuyển nội bộ do công ty mẹ cấp.
Dư nợ tài trợ cho các doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tổng dư nợ tài trợ xuất khẩu theo thành phần kinh tế của NHNT. NHNT tài trợ cho thành phần kinh tế này mới bắt đầu từ năm 2005, và qua 2 năm thực hiện thì dư nợ của các doanh nghiệp tư nhân cũng tăng lên, năm 2006 dư nợ đạt mức 20,055 triệu VNĐ trong ngắn hạn ( chiếm 1.24% ) tăng 65.25% so với năm 2005, trong trung – dài hạn dư nợ đạt mức 16,671 triệu VNĐ ( chiếm 1.2% ) tăng 78% so với năm 2005. Các doanh nghiệp tư nhân ra đời và phát triển từ nhiều năm nay, nhưng do quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này rất nhỏ, và phần lớn là các doanh nghiệp mới tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro, chưa đưa ra được chiến lược kinh doanh khả thi, báo cáo tài chính chưa minh bạch,…nên ngân hàng khó đánh giá thông tin tín dụng của họ. Vì vậy, việc các doanh nghiệp luôn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn của ngân hàng, và việc tài trợ cho các doanh nghiệp này là rất ít.
2.2.3.5. Cơ cấu tài trợ xuất khẩu theo các hình thức thanh toán tín dụng chứng
từ tại NHNTVN.
Để đáp ứng nhu cầu vay vốn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của
các doanh nghiệp, NHNT đã tiến hành nhiều hoạt động cải tiến và đa dạng hoá
các hình thức TDTTXK. Trong đó hai hình thức phổ biến nhất là cho vay tài trợ xuất khẩu theo phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Tình hình thanh toán xuất khẩu tại NHNTVN.
Hoạt động thanh toán quốc tế tại NHNT phục vụ chủ yếu cho hoạt dộng thanh toán xuất nhập khẩu. Do vậy nghiệp vụ này có phát triển hay không sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và mua bán ngoại tệ của ngân hàng. NHNT với ưu thế của mình và bề dày kinh nghiệm về nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hơn 30 năm qua nên quy trình, thao tác nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu cũng như kết quả đạt được có phần hoàn chỉnh hơn, chiếm 28% thị phấn của cả nước. Trong những năm qua, NHNT không ngừng củng cố và nâng cao nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu cho nên NHNT đã và đang là một trong những ngân hàng được nhiều doanh nghiệp kinh doanh quốc tế tin tưởng và lựa chọn làm đơn vị tài trợ hoặc trung gian bảo lãnh cho hoạt động xuất nhập khẩu của họ.
Bảng 2.9. Doanh số thanh toán xuất khẩu tại NHNTVN.
Đơn vị: triệu USD; %.
Năm 2003 | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | |||||
Gía trị | Thị phần | Gía trị | Thị phần | Gía trị | Thị phần | Gía trị | Thị phần | |
DSTTXK | 5,692 | 28.2% | 6,968 | 26.3% | 9,375 | 28.9% | 10,248 | 28% |
Tốc độ tăngtrưởng | - | 16.87% | 34.5% | 9.3% |
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Cơ Bản Của Nhntvn.
- Điều Kiện Được Tài Trợ Vốn Để Thực Hiện Hoạt Động Xuất Khẩu.
- Cơ Cấu Tài Trợ Xuất Khẩu Theo Việt Nam Đồng Và Ngoại Tệ (Usd ) Tại
- Cán Bộ Còn Thiếu Mạnh Dạn Và E Ngại Trong Việc Cho Vay.
- Giải Pháp Thúc Đẩy Hoạt Động Tín Dụng Tài Trợ Xuất Khẩu Tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
- Giải Pháp Thúc Đẩy Hoạt Động Tín Dụng Tài Trợ Xuất Khẩu Tại Nhntvn.
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
Nguồn: Phòng thanh toán xuất khẩu NHNTVN. Nhìn vào bảng số liệu 2.9 doanh số thanh toán xuất khẩu qua NHNT không ngừng tăng qua các năm: năm 2006 đạt mức 10,248 triệu USD chiếm 28% thị phần xuất khẩu của cả nước, tăng 9.8% so với năm 2005. NHNT là đầu mối quan trọng cho các tổng công ty và các công ty lớn trong lĩnh vực xuất khẩu thực hiện thanh toán. Các công ty thanh toán nhiều qua NHNT công ty
Vinafood, công ty Petrolimex, công ty cổ phần may 10,…
Tình hình tài trợ xuất khẩu theo hình thức L/C đã mở.
Nhiều ngân hàng và khách hàng nước ngoài đã biết đến NHNTVN, chỉ địn NHNTVN làm ngân hàng thông báo và ngân hàng xác nhận. Thông qua quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài, NHNTVN có thể theo dõi diễn biến trên thị trường tiền tệ của các nước, tình hình tài chính của khách hàng để kịp thời có đối sách riêng trong quan hệ, chỉ đạo các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động thanh toán hàng xuất khẩu sang các nước có khủng hoảng. Hơn nữa, NHNT đã có quy trình nghiệp vụ chiết khấu chứng từ hàng xuất, vì vậy khi doanh nghiệp xuất khẩu nhận được L/C do NHNT thông báo, thì dựa vào đó ngân hàng có thể cấp một khoản tín dụng hoặc thực hiện chiết khấu bộ chứng từ cho doanh nghiệp xuất khẩu nếu họ có yêu cầu để họ có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng xuất khẩu, và thực hiện xuất hàng theo L/C quy định. Hoạt động chiết khấu khấu chứng từ hàng xuất của NHNT chủ yếu được thực hiện tại phòng thanh toán xuất khẩu. Về hình thức, hiện nay phòng thanh toán xuất khẩu của NHNT áp dụng hai hình thức chiết khấu là chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu truy đòi đối với bộ chứng từ hàng xuất. Nhưng trong thực tế thì ở NHNT áp dụng phổ biến hình thức triết khấu truy đòi nhằm hạn chế rủi ro xảy ra đối với ngân hàng.
Bảng 2.10. Tình hình chiết khấu chứng từ hàng xuất tại NHNTVN.
Đơn vị: nghìn USD; %.
Năm 2003 | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | |
DSTT | 318,212 | 348,135 | 398,203 | 472,667 |
Tốcđộ tăng trưởng so với năm trước | - | 9.4% | 14.35% | 18.7% |
DSCK | 6,541 | 7,092 | 7,997 | 8,915 |
Tốcđộ tăng trưởng so với năm trước | - | 8.42% | 12.76% | 11.48% |
Nguồn: Phòng thanh toán xuất khẩu NHNT.
Nhìn vào bảng số liệu 2.10cho thấy, doanh số thanh toán và doanh số chiết khấu đều tăng nên tăng nên qua các năm. Năm 2005 doanh số thanh toán là 398,203 nghìn USD, tăng 14.35% so với năm 2004, năm 2006 đạt 472.667
nghìn USD tăng 18.7% so với năm 2005. Còn doanh số chiết khấu năm 2005 đạt 7,997 nghìn USD tăng 12.76% so với năm 2004, năm 2006 đạt mức 8,915 nghìn USD tăng 11.48%. Như vậy, trong khi doanh số thanh toán có tốc độ tăng trưởng lên đều thì năm 2006 đánh dấu dấu hiệu giảm sút và chững lại trong hoạt động chiết khấu tại NHNT. Mà chiết khấu chứng từ hàng xuất là một trong những hình thức TDTTXK khá an toàn, và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân hàng, hơn nữa NHNT lại rất có thế mạnh trong thanh toán hàng xuất khẩu – đó là lợi thế không nhỏ để phát triển hình thức TDTTXK này. Vậy sự giảm sút này về tốc độ tăng trưởng doanh số chiết khấu là: NHNT vẫn chưa tận dụng được hết lợi thế của mình, trong một số trường hợp, ngân hàng còn quá cẩn trọng trong hoạt động chiết khấu, nên nhiều khách hàng muốn chiết khấu chứng từ mà không được chấp nhận. Điều đó làm cho nhiều khách hàng sau khi giao hàng và hoàn thiện bộ chứng từ lại đem chiết khấu tại các ngân hàng khác. Lí do thứ 2, là do giá trị thanh toán lớn thì nhu cầu chiết khấu hàng xuất của doanh nghiệp giảm đi. Mà từ năm 2005 giá trị thanh toán tăng nhanh nên giá trị chiết khấu có tốc độ tăng trưởng chậm lại. Hơn nữa, từ năm 2004 quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp diễn ra nhanh chóng, với quá trình này, nhiều doanh nghiệp trở nên hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn và quy mô sản xuất kinh doanh cũng được mở rộng hơn, và nhiều doanh nghiệp còn có bộ phận thanh toán riêng với các nhân viên thành thạo công tác thanh toán. Do đó, các doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong thanh toán quốc tế, họ chỉ còn phải thông qua NHNT như một nơi tài trợ vốn TDTTXK hoặc chỉ đơn giản là một trung gian thông báo hay bảo lãnh thanh toán cho họ.
Trên đây là các bảng số liệu về tình hình TDTTXK tại NHNTVN trong những năm gần đây ( 2003 –2006 ). Qua việc phân tích các bảng số liệu đó có thể thấy kết quả hoạt động TDTTXK cũng khá khả quan, và nó đang trở thành một hoạt động có thế mạnh của NHNTVN.
2.3. Đánh giá về hoạt động TDTTXK tại NHNTVN.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
2.3.1.2. Dư nợ tín dụng tài trợ xuất khẩu tăng trưởng đều qua các năm.
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta hàng năm đều trên 7%/năm, và tốc độ phát triển nhanh chóng của hoạt động xuất khẩu đã tác động trực tiếp và tạo điều kiện cho hoạt động TDTTXK tại NHNT tăng trưởng và phát triển ổn định. Điều đó được thể hiện thông qua những con số của dư nợ TDTTXK. Năm 2006 dư nợ TDTTXK tại NHNT tăng 5.32% so với năm 2005, năm 2005 tăng 4.68% so với năm 2004. Tốc độ tăng trưởng TDTTXK trong giai đoạn 2004 – 2005 không đạt cao bằng những năm 2000 – 2003 là do nền kinh tế nước ta những năm đó vừa thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, nên hoạt động xuất khẩu phục hồi nhanh chóng, dẫn đến hoạt động TDTTXK tại NHNT đã đạt được kết quả cao như vậy. Trong những năm qua, NHNT luôn cố gắng nỗ lực hết mình trong việc thực hiện mục tiêu đưa hoạt động tín dụng phát triển với nhịp độ cao, sánh ngang và vượt lên các ngân hàng lớn khác. Với các biện pháp được đưa ra và áp dụng triển khai như: rút ngắn thời gian thẩm định, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, áp dụng cơ chế cho vay thông thoáng hơn, đẩy mạnh công tác tìm kiếm khách hàng, tìm kiếm cơ hội cho vay ở nhiều thành phần kinh tế,… đã tạo cơ sở cho sự phát triển ổn định và vững chắc của hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động TDTTXK nói riêng tại NHNTVN.
2.3.1.2. Chất lượng tín dụng được cải thiện đáng kể.
Song song với việc gia tăng dư nợ TDTTXK, NHNT đã tích cực triển khai nhiều biện pháp xử lý nợ theo Đề án tái cơ cấu nên đã nâng cao được chất lượng tín dụng. Điều này thể hiện: tỷ lệ nợ quá hạn không đáng kể trên tổng dư nợ, đặc biệt trong mấy năm gần đây rất ít nợ quá hạn phát sinh từ các hợp đồng mới, tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ năm 2006 là 1.88%, thấp hơn nhiều so với mức khống chế của Hội đồng quản trị đề ra từ đầu năm là 3%. Điều này một lần nữa khẳng định những nỗ lực của NHNT trong việc khi kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng song song với việc phát triển tín dụng. Đây là kết quả của nhiều biện pháp mà NHNT đang áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro như:
- Xác định giới hạn tín dụng: hàng năm hoặc 6 tháng một lần, NHNT lại thành lập một hội đồng tín dụng nhằm đánh giá lại tình hình của từng khách hàng đang có quan hệ với mình. Qua đó, căn cứ vào tình hình thực tế và nhu cầu của doanh nghiệp, NHNT xác định một giới hạn tín dụng cho khách hàng. Việc xác định giới hạn tín dụng cho khách hàng theo định kỳ vừa tạo thuận tiện cho khách hàng trong quá trình kinh doanh mà còn là biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chểủi ro tín dụng.
- Chủ động tìm kiếm thông tin về khách hàng , thông tin về thị trường, giá cả mặt hàng cũng như tình hình chính trị xã hội trong và ngoài nước theo nhiều nguồn khác nhau. Ngoài những nguồn thông tin do chính khách hàng cung cấp trước đây thì hiện nay thông tin về khách hàng còn được thu thập từ các tài liệu phân tích thị trường, tài liệu dự trữ liên ngân hàng, thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro, hay thông qua hệ thống máy tính nối mạng đã hỗ trợ khá tốt cho cán bộ tín dụng trong quá trình tìm kiếm thông tin.
2.3.1.3. Cơ cấu TDTTXK thành phần kinh tế thay đổi theo hướng tích cực.
Điều này đã được thể hiện ngay từ chính sách và chương trình hoạt động của NHNT. NHNT đã từng bước cơ cấu lại đối tượng khách hàng theo hướng đa dạng hoá, tăng cường phát triển khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( SME ), các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI ). Đây là định hướng đi có tính tích cực và đột phá của NHNT và đã được cộng đồng tài chính quốc tế đánh giá cao. Với định hướng như vậy, trong những năm gần đây, NHNT đã giảm dần tín dụng vào những doanh nghiệp Nhà Nước, đặc biệt là các tổng công ty lớn, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với các thành phần kinh tế khác, nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào một số khách hàng. Để thực hịên chủ trương đó, NHNT đã thực hiện biện pháp: một mặt giữ vững mối quan hệ với các khách hàng cũ, mặtkhác tập trung đẩy mạnh sang cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Kết quả là từ năm 2002, tỷ lệ dư nợ đối với thành phần kinh tế quốc doanh giảm từ trên 90% xuống còn khoảng 83% vào năm 2006, tỷ lệ dư nợ đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đặc biệt là các doanh nghiệp cổ
phần và công ty TNHH tăng từ 5% lên 11%. Việc chuyển dịch cơ cấu tài trợ theo hướng tích cực như vậy giúp cho NHNT tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng khi có nhiều biến động lớn từ phía các khách hàng lớn.
2.3.1.4. Phương thức cho vay được đa dạng hoá tạo thuận tiện cho khách hàng.
Nếu như trước đây hoạt động cho vay ở NHNT chủ yếu dừng lại ở việc cho vay các thương vụ có tính chất nhỏ lẻ, thì hiện nay phương thức cho vay tài trợ xuất khẩu dã được cải tiến từng bước. Từ năm 2002, NHNT đã áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng và trong các năm tiếp theo NHNT chủ yếu sử dụng phương thức này, nó vừa thuận tiện cho khách hàng đến vay vốn được giảm bớt khâu thủ tục vừa giúp ngân hàng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động TDTTXK.
Hoạt động xuất khẩu luôn gắn liền với hoạt động thanh toán quốc tế. Vốn là ngân hàng có truyền thống và thế mạnh trong hoạt động thanh toán quốc tế, NHNT đã biết tận dụng lợi thế này để làm phong phú hoạt động cho vay của mình. Trong những năm gần đâ, NHNT từng bước đã tiến hành cung cấp cho khách hàng các dịch vụ trọn gói bao gồm cho vay và các dịch vụ thanh toán quốc tế đi kèm với chất lượng cao, đem đến sự thuận tiện cho khách hàng. Từ năm 2002 – 2006, khoảng gần một nửa các L/C xuất khẩu qua NHNT đã được thực hiện bằng vốn vay do NHNT cấp.
2.3.1.5. Chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế luôn được cải thiện.
Thanh toán quốc tế là lĩnh vực kinh doanh đối ngoại truyền thống mà NHNT luôn duy trì và khẳng định vị thế hàng đầu trong toàn ngành. Với việc tham gia hệ thống thanh toán SWIFT ( Hệ thống viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu ), NHNT đã tăng cường khả năng hỗ trợ và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng trong việc thanh toán. Thông qua NHNT, khách hàng có thể thanh toán các hợp đồng xuất khẩu một cách nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và tiết kiệm thời gian. Trong năm 2005, hoạt động thanh toán quốc thế qua mạng
SWIFT của NHNT đã có nhiều chuyển biến tích cực. Việc chính thức triển khai chương trình chuyển tiền đi theo mô hình xử lý tập trung tại trung ương bắt đầu từ tháng 10 / 2005 đã tạo điều kiện xử lý các giao dịch chuyển tiền đi một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn, giảm thiểu công việc lưu trữ và đối chiếu chứng từ giấy. Chương trình chuyển và phân điện tự động trên máy được triển khai từ tháng 11 / 2005 đã hỗ trợ việc phân loại và xử lý tự động phần lớn các điện đến và đi theo cơ chế trực tuyến, giảm bớt các khâu trung gian tham gia chuyển và nhận điện. Tổng lượng điện đi và đến qua mạng SWIFT năm 2006 tăng 5% so với năm 2005, trung bình trên 70.000 bức điện/tháng. Với những bước chuyển biến tích cực như vậy, NHNT liên tục đạt được danh hiệu ngân hàng có chất lượng dịch vụ tốt nhất do các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế trao tặng. Uy tín tốt trong hoạt động thanh toán quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động TDTTXK phát triển nhanh chóng: NHNT thực hiện các cam kết bảo lãnh cho các nhà xuất khẩu chủ yếu dựa trên uy tín của mình.
2.3.2. Những khó khăn và tồn tại.
2.3.2.1. Tài trợ xuất khẩu còn chiếm tỷ trọng thấp.
Cơ cấu cho vay giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước trong thời gian gần đây đã có những thay đổi đáng kể. Khoảng cách giữa kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu ngày càng được thu hẹp. Thế nhưng cho vay xuất khẩu của NHNT trong những năm qua luôn ở mức thấp. chỉ chiếm khoảng 27% tổng dư nợ cho vay, trong khi cho vay nhập khẩu chiếm tới 70% tổng dư nợ cho vay. Điều này cho thấy sự chậm trễ của NHNT trong việc tiếp cận các doanh nghiệp sản xuất, thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Mặc dù hàng năm có tới hàng nghìn L/C xuất khẩu thông báo qua NHNT nhưng chỉ có một phần nhỏ trong các thương vụ xuất khẩu này được NHNT cấp vốn. Bộ phận tín dụng còn quá thụ động trong việc cho vay xuất khẩu, chủ yếu là khách hàng đến xin vay.
2.3.2.2. Dư nợ cho vay các công ty lớn còn chiếm tỷ lệ cao.
Mặc dù NHNT có chủ trương đa dạng hoá khách hàng, giảm sự tập trung