Đối với các cán bộ yếu kém về đạo đức và nghiệp vụ, cần thực hiện thuyên chuyển sang bộ phận công tác khác.
Thường xuyên hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn
Thường xuyên có các buổi báo cáo, sinh hoạt chuyên môn để có thể phổ biến các chế độ, thể lệ... của các ngành liên quan, của Ngân hàng; gắn lý luận chung với thực tiễn để cán bộ tín dụng có thể vận dụng khi thẩm định, giải quyết các khoản vay.
Tăng cường đào tạo trong nước: Ngân hàng Quân Đội cần khuyền khích các cán bộ đi học sau đại học; tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, các cuộc hội thảo... để học tập nghiên cứu thêm về các kiến thức như pháp luật, ngoại ngữ, phân tích thị trường, chăm sóc khách hàng.
Tăng cường đào tạo ở nước ngoài: Ngân hàng có thể phối kết hợp với các ngân hàng nước ngoài để cử các cán bộ chủ chốt tham gia các khóa đào tạo ở nước ngoài, chủ yếu tập trung vào các nghiệp vụ phục vụ cho công tác tín dụng xuất nhập khẩu.
Mục tiêu cuối cùng của các hoạt động này là Ngân hàng Quân Đội có thể có được đội ngũ cán bộ tín dụng nắm vững các kỹ năng:
- Kỹ năng phục vụ khách hàng: đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có những kiến thức nhất định về marketing để thu hút và phục vụ khách hàng chu đáo. Bên cạnh đó cán bộ tín dụng phải nắm vững nghiệp vụ ngân hàng khác để khi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, họ có thể thu hút và mở rộng cho vay.
- Kỹ năng tìm hiểu và phân tích và tổng hợp thông tin: Kỹ năng tìm hiểu thông tin đòi hỏi khả năng thu thập và khai thác thông tin hữu ích; đồng thời phải có khả năng bảo mật các thông tin này để bảo vệ quyền lợi của Ngân hàng và khách hàng của mình; khắc phục một phần tình trạng thông tin mất cân xứng giữa Ngân hàng và khách hàng nhằm mở rộng tín dụng và hạn chế rủi ro. Kỹ năng phân tích thông tin đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có khả năng
phân tích, phát hiện và khai thác các khía cạnh khác nhau của các thông tin thu thập được để phục vụ cho nghiệp vụ của mình. Kỹ năng tổng hợp là kỹ năng hết sức quan trọng đối với cán bộ tín dụng. Trên các dữ liệu thu thập được, cán bộ tín dụng phải có khả năng tổng hợp được điểm mạnh, điểm yếu của khách hàng và quan điểm của mình trên từng đặc điểm đó.
- Kỹ năng suy diễn: Trên những nhận định về khách hàng hiện tại, bằng phương pháp suy diễn trên cơ sở khoa học, cán bộ tín dụng đưa ra những nhận định trong tương lai; giúp họ mở rộng hay thu hẹp mức tín dụng đối với khách hàng của mình đang quản lý cho phù hợp với từng thời kỳ.
Có thể bạn quan tâm!
- Điều Tra Trình Độ Cán Bộ Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu Và Thanh Toán Quốc Tế Tại Các Chi Nhánh Ngân Hàng Quân Đội Năm 2007
- Định Hướng Phát Triển Hoạt Động Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu
- Xây Dựng Và Hoàn Thiện Các Biện Pháp Phòng Ngừa, Quản Lý Rủi Ro Trong Hoạt Động Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu
- Giải pháp phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội - 16
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
- Kỹ năng đàm phán với khách hàng: đòi hỏi khả năng đàm phán thương lượng với khách hàng về các vấn đề có liên quan tới việc tuân thủ các điều khoản trong chế độ, thể lệ cho vay nhằm bảo vệ quyền lợi cho Ngân hàng.
4.2. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng
Trước sự phát triển không ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, thì một trong những yếu tố quyết định thắng lợi là áp dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ và hoạt động ngân hàng. Công nghệ càng hiện đại, Ngân hàng càng có thể thu thập và xử lý thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, tạo niềm tin nơi khách hàng đến giao dịch.
Việc đầu tư, đổi mới công nghệ thanh toán là rất cần thiết và cấp bách hiện nay của Ngân hàng Quân Đội để mở rộng và hoàn thiện mạng lưới thanh toán quốc tế, rút ngắn tối đa thời gian thanh toán, an toàn và tiện ích, cạnh tranh được với các ngân hàng thương mại khác.
- Thay đổi chương trình phần mềm thanh toán: mà biện pháp hiệu quả nhất là mua bản quyền các chương trình phần mềm thanh toán hiện đại của nước ngoài. Việc này giúp tận dụng được lợi thế của người đi sau, tiết kiệm được thời gian và chi phí.
- Đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị, mạng cục bộ và hệ thống truyền thông. Ví dụ chuyển mạng cục bộ (LAN) của các chi nhánh có hoạt động thanh toán quốc tế lớn từ cấu hình BUS sang cấu hình STAR. Bên cạnh đó Ngân hàng có thể giao cho các trung tâm công nghệ thông tin khảo sát, tìm kiếm, đưa ra các giải pháp tối ưu nhằm giải quyết các vấn đề ách tắc mạng truyền thông thông tin trong toàn hệ thống, đảm bảo thông suốt trong quá trình làm việc.
- Triển khai thiết kế các phần mềm tin học liên quan đến xuất nhập khẩu, nhằm phục vụ công tác báo cáo, thống kê, lưu trữ và xử lý thông tin, phân loại khách hàng.
- Thực hiện nối mạng khách hàng nhằm đáp ứng yêu cầu thu thập thông tin cập nhật nhất về tình hình tài chính, tiền tệ thế giới cũng như các nhu cầu của khách hàng, nhằm phục vụ khách hàng nhanh nhất, chính xác nhất và hiệu quả nhất.
III. Các kiến nghị với chính phủ và ngân hàng nhà nước
1. Đối với Chính phủ
1.1. Đảm bảo môi trường pháp lý ổn định hiệu quả
Góp phần đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng ngân hàng cấp cho nền kinh tế, môi trường kinh tế không ổn định sẽ gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn vay ngân hàng, và do đó dẫn đến khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc trả nợ ngân hàng.
Chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ và Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện. Trong đó các chính sách về thuế chưa hợp lý, thường xuyên thay đổi dẫn đến việc các doanh nghiệp chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy Chính phủ cần hoạch định chính sách dài hạn về định hướng phát triển, chính sách về giá cả, chính sách về thuế, về ưu đãi đầu tư phát triển... ; đồng thời phải có
các biện pháp phù hợp nhằm đảm bảo một môi trường kinh tế ổn định cho hoạt động của các doanh nghiệp. Chính phủ cũng nên có những giải pháp thiết thực tháo gỡ những khó khăn gây ra trong khi có sự chuyển đổi, điều chỉnh cơ chế, chính sách liên quan đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Bên cạnh đó, Chính phủ phải đưa ra các biện pháp hữu hiệu nhằm tăng cường hiệu lực của chính sách thuế, chính sách chống và ngăn chặn hàng lậu... để đảm bảo tác dụng tích cực của các chính sách này; tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh...
Về hoạt động xuất nhập khẩu: Chính phủ cần có chính sách khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu.
Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, tạo điều kiện cho công tác thanh toán quốc tế, Chính phủ phải tăng cường hiệu lực các văn bản và thủ tục xuất nhập khẩu, phải có quy chế bắt buộc các doanh nghiệp khi đủ điều kiện về tài chính, trình độ quản lý, khả năng xuất nhập khẩu, khả năng cạnh tranh... thì mới được cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp. Thực tế cho thấy năng lực tài chính của các doanh nghiệp nước ta hiện nay còn quá kém, hoạt động kinh doanh chủ yếu bầng vốn vay ngân hàng. Nếu kinh doanh thua lỗ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng và uy tín của ngân hàng. Vì vậy trước mắt Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan cần tập trung rà soát lại các đơn vị, tổ chức kinh tế không đủ điều kiện xuất nhập khẩu trực tiếp thì phải chuyển sang ủy thác xuất nhập khẩu, tránh rủi ro cho các bên tham gia.
Chính phủ cần tăng cường công tác kiểm soát lĩnh vực hoạt động ngoại thương và ngoại hối để kịp thời ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động kinh tế “ngầm” như buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, rửa tiền...
1.2. Tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng
Để thực hiện được điều này, Chính phủ cần có những giải pháp như:
- Tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp:
Với cơ chế mở, hiện nay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang phát triển một cách nhanh chóng. Mặc dù thành phần kinh tế này đã tham gia và đóng góp đáng kể vào GDP song Chính phủ và Nhà nước chưa có một chế tài nào đủ mạnh để tiến hành quản lý hoạt động kinh doanh của họ. Đặc biệt là các loại hình doanh nghiệp cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn được cấp phép hoạt động một cách khá dễ dàng, không có sự kiểm soát tính chân thực. Ví dụ như các báo cáo tài chính không có kiểm chứng hay nói cách khác là không có tính minh bạch. Đa phần các doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn... thường khai thấp lợi nhuận thu được để trốn thuế.
Chính vì vậy Chính phủ cần phải có biện pháp hữu hiệu buộc các doanh nghiệp phải chấp hành Luật kế toán, chế độ kiểm toán bắt buộc nhằm đảm bảo thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính được phản ánh một cách đầy đủ, chính xác: Tăng cường công tác giám sát, công tác thông tin báo cáo, chế độ hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp, bảo đảm tuân thủ nghiêm túc pháp lệnh kế toán thống kê; tách bạch chức năng quản lý, giám sát của một số cơ quan nhà nước với chức năng kinh doanh, tránh tình trạng làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Trên cơ sở đó các ngân hàng mới đánh giá chính xác tình hình doanh nghiệp đồng thời đảm bảo được an toàn vốn vay của ngân hàng.
- Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và tăng vốn tự có cho các doanh nghiệp này: Với tình hình thực tế hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và doanh nghiệp quốc phòng làm kinh tế nói riêng đều kinh doanh trên mức vốn tự có rất thấp do Nhà nước cấp. Do đó nguồn vốn hoạt động kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp là vay vốn từ ngân hàng. Điều này sẽ làm giảm lợi nhuận, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và rất dễ gây mất cân đối tài chính, gây ra rủi ro cho ngân hàng. Để khắc phục điều này, Chính phủ và Nhà nước cần nhanh chóng sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và có kế hoạch tăng vốn để giữ vững vai trò chủ đạo của thành
phần kinh tế Nhà nước. Các doanh nghiệp còn lại sẽ tiến hành cổ phần hóa để thu hút nguồn vốn tự có. Ngoài ra, Nhà nước cần cho phép các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả được huy động vốn từ các hình thức như phát hành trái phiếu, vừa tăng vốn cho doanh nghiệp vừa tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
1.3. Hỗ trợ và khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu
Đối với hoạt động xuất khẩu
- Chính phủ cần đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là xúc tiến quan hệ thương mại đối với những thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh EU và các nước trong khu vực.
- Tổ chức tốt công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường nước ngoài để có chính sách cải thiện các mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với từng thị trường cụ thể; đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp cải thiện công nghệ, hiện đại hóa dây truyền sản xuấ đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước.
- Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu các mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam như nông sản, thủy hải sản... tạo điều kiện giảm giá thành sản xuất cho các doanh nghiệp.
- Hỗ trợ và gia tăng đối với bảo hiểm xuất khẩu.
- Có các biện pháp bảo vệ các nhà xuất khẩu Việt Nam đương đầu với các sức ép từ các Chính phủ, thị trường và doanh nghiệp nước ngoài như các vụ kiện tụng... để tránh cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khỏi sự hoang mang, bị động.
Đối với hoạt động nhập khẩu
- Cần có các chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép nhập khẩu, quản lý bằng hạn ngạch và công cụ thuế nhằm hạn chế nhập khẩu những hàng hoá mà trong nước đã có đủ khả năng sản xuất.
- Cần có các chính sách hợp lý cho phép nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu như công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại... làm gia tăng năng lực sản xuất hàng hoá trong nước, góp phần phục vụ xuất khẩu.
1.4. Huy động các nguồn vốn quốc tế phục vụ cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
Trong việc huy động vốn, chúng ta luôn chủ trương phải phát huy yếu tố nội lực, khai thác mọi tiềm năng về vốn trong nước. Bên cạnh đó, để bổ sung cho nguồn vốn trong nước hiện chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu, việc thu hút vốn từ nước ngoài là hết sức cần thiết. Chính phủ có thể thu hút nguồn vốn quốc tề từ các nguồn:
- Tín dụng nhà nước được ký kết bằng các hiệp định giữa các Chính
phủ
- Tn dụng từ các tổ chức cho vay dành cho Chính phủ các nước như
Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)... trong đó các tổ chức này dành cho nước hội viên những điều kiện ưu đãi theo quy định trong quy chế của tổ chức.
Trong điều kiện hiện nay, nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế cũng như từ Chính phủ các nước đang có xu hướng giảm đi, trong khi số nước nghèo có nhu cầu nhận viện trợ lại tăng lên. Vì vậy Chính phủ cần có các biện pháp hữu hiệu nhằm tăng khả năng thu hút vốn từ bên ngoài như ổn định kinh tế chính trị xã hội. Bên cạnh đó Chính phủ cũng cần quan tâm tới việc thực hiện các nguồn vốn hỗ trợ sao cho có hiệu quả vì dù tiếp cận nguồn vốn này với những điều kiện ưu đãi nhưng đây vẫn là nguồn vốn vay và ta phải có nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn.
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà Nước (CIC)
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phát huy hiệu quả vai trò điều phối của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) thông qua một số biện pháp: quy định các ngân hàng thương mại cung cấp thông tin về khách hàng lớn, các khách hàng có khả năng rủi ro cao. Trung tâm CIC nên có các văn bản thỏa thuận để thu thập thông tin từ các bộ, ngành như Trung tâm thông tin của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Thuế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học – công nghệ và Môi trường, Bộ Thương mại…; đồng thời mở rộng thu thập thông tin từ nước ngoài, từ một số cơ quan thông tin tín dụng quốc tế lớn như Hiệp hội thông tin tín dụng Châu Á, Diễn đàn thông tin tín dụng ASEAN, các tổ chức tài chính, ngân hàng trong khu vực…
Bên cạnh CIC, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu tổ chức trung tâm cho phép các tổ chức tín dụng có thể khai thác thông tin về tài khoản và giao dịch tài khoản của khách hàng tại tất cả các tổ chức tín dụng; đồng thời cho phép các tổ chức tín dụng có quyền khấu trừ tài khoản của khách hàng tại bất cứ tổ chức tín dụng nào để thanh toán nợ vay đến hạn mà không trả được.
2.2. Ban hành hướng dẫn phân loại nợ, xử lý các khoản nợ xấu, nợ quá hạn gần với tiêu chuẩn quốc tế
Ngày 22/4/2005, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 493/2005/QĐ- NHNN làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Đây là một bước phát triển mới nhằm nâng cao sự an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Tuy nhiên, bản thân văn bản này vẫn có những bất cập cần sửa đổi. Theo quy định này, dư nợ cho vay của ngân hàng được chia làm 5 nhóm, ngoài nhóm 1 thì 4 nhóm còn lại đều phải tính toán đề trích lập dự phòng rủi ro. Trong đó một khoản tiền vay để quá hạn tạm thời (dưới 3 tháng) sẽ tốt hơn phải gia hạn nợ vì đối với gia hạn nợ sẽ còn phải chịu thử thách thêm 3 tháng (đối với vay ngắn hạn), 12 tháng (đối với vay dài hạn) kể từ ngày trả nợ khoản vay đó mới được chuyển vào trong hạn và không phải trích lập dự phòng rủi ro. Như vậy, vô hình chung, quy định này đã đẩy các ngân hàng