quả; chính sách lãi suất chưa theo kịp thị trường hoặc thường đi sau các ngân hàng khác gây ra một dòng chảy vốn tạm thời ra ngoài Ngân hàng.
Bên cạnh đó, sự phát triển của đất nước kéo theo trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, đây là chìa khóa, là thị trường ngỏ cho các ngân hàng triển khai những dịch vụ thanh toán tiện ích, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông. Tuy nhiên công tác thanh toán của Ngân hàng Quân Đội chưa được chuyên nghiệp hóa, hiện vẫn đang được xử lý ở bộ phận kế toán. Các sản phẩm, dịch vụ hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán quốc tế... vẫn chưa thực sự được triển khai hoàn thiện, trong khi đó một số ngân hàng khác như Ngân hàng ACB, Ngân hàng Đông Á... đã phát triển các sản phẩm dịch vụ này khá hiệu quả. Đây là một kênh huy động vốn quan trọng và tiện ích, vì vậy Ngân hàng Quân Đội cần phải quan tâm và mạnh dạn đầu tư kịp thời nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
Chất lượng thẩm định và đánh giá phương án kinh doanh chưa được thống nhất và đồng bộ
Mặc dù đã có quy trình tín dụng nhưng chất lượng thẩm định của một số bộ phận trong Ngân hàng chưa cao và chưa được thống nhất. Chất lượng thông tin, năng lực chuyên môn của một số cán bộ tín dụng chưa cao và chưa sâu. Cán bộ tín dụng cũng không được trang bị những kiến thức thực tế về thanh toán quốc tế, vì vậy họ phải thường xuyên tiếp nhận những thông tin như quá trình mở L/C, quá trình lưu chuyển bộ chứng từ xuất nhập hàng, hối phiếu và các thông tin về hàng hóa xuất nhập khẩu.... từ bộ phận thanh toán quốc tế và cũng không nắm vững đc các quy dịnh trong thanh toán quốc tế, đặc biệt là nội dung những văn bản mang tính quốc tế như UCP 600.
Tỷ lệ cho vay không có tài sản đảm bảo vẫn ở mức cao
Dù chủ trương hiện nay của Ngân hàng Quân Đội là tăng cường cho vay có tài sản đảm bảo, nhưng phần lớn khách hàng của Ngân hàng trước đây đa phần là các doanh nghiệp quân đội và các doanh nghiệp quốc doanh nên
Ngân hàng thường cho vay tín chấp. Chính vì vậy, hiện nay với sự thay đổi trong quan điểm của Ngân hàng Nhà nước về “nợ” thì tỷ lệ nợ phải trích dự phòng của Ngân hàng đang có chiều hướng tăng lên, bởi nhiều khoản vay phải gia hạn đối với doanh nghiệp quốc doanh mà không có tài sản đảm bảo, ảnh hưởng đến thu nhập nói riêng cũng như hoạt động chung của Ngân hàng.
Chính sách Marketing chưa có hiệu quả
Chính sách lãi suất, mức phí dịch vụ, chính sách đầu tư, quảng bá những sản phẩm và dịch vụ mới chưa được tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, việc tham gia tổ chức các hội thảo, tài trợ… để tăng cường lưu truyền hình ảnh của Ngân hàng Quân Đội đến giới đầu tư và kinh doanh vẫn chưa được thực hiện thường xuyên.
Với định hướng mở rộng và cho vay, Ngân hàng Quân Đội đã thành lập phòng Marketing thực thuộc Hội sở với chức năng xây dựng hình ảnh, quảng bá thương hiệu Ngân hàng và một số công việc khác. Tuy vậy hoạt động của phòng Marketing chỉ mới ở dạng giúp đỡ các phòng ban quy chuẩn lại các biển hiệu, thông báo… mà chưa có kế hoạch dài hơi cụ thể như nghiên cứu thị trường (bao gồm nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh…), đánh giá dịch vụ ngân hàng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, sản phẩm ngân hàng cũng như mở rộng hoạt động của Ngân hàng Quân Đội.
Năng lực của một số cán bộ tín dụng còn hạn chế
Cán bộ tín dụng của Ngân hàng Quân Đội có tới trên 90% trình độ đại học và trên đại học. Tuy nhiên số lượng còn thiếu, còn kiêm nhiệm vừa thực hiện hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa cho vay bán lẻ, phần lớn còn trẻ và chưa có kinh nghiệm nghề nghiệp cao nên không thể hoạt động một cách độc lập, chưa theo kịp cường độ công việc. Tư duy phục vụ khách hàng làm phương châm phục vụ của một số cán bộ còn chưa nhận thức được đầy đủ. Việc quy hoạch cán bộ chưa được chú trọng bố trí, sắp xếp. Bài học cho công
tác tuyển chọn cán bộ tín dụng là: Nếu không có tài thì không thể mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay, nếu không có đức thì chất lượng cho vay sẽ kém.
Bảng 2.14. Điều tra trình độ cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế tại các chi nhánh Ngân hàng Quân Đội năm 2007
Đơn vị: người
Tổng số | Trong đó | ||||||||
Trình độ ĐH và trên ĐH | Trình độ ngoại ngữ | Đã qua đào tạo nghiệp vụ xuất nhập khẩu | |||||||
Số lượng | Tỷ lệ | Trình độ A | Trình độ B | Trình độ C | Số lượng | Tỷ lệ | |||
SL | TL | SL | TL | SL | TL |
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Hoạt Động Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội
- Dư Nợ Cho Vay Xuất Khẩu Trực Tiếp Theo Thời Hạn
- Đánh Giá Thực Trạng Hoạt Động Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội
- Định Hướng Phát Triển Hoạt Động Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu
- Xây Dựng Và Hoàn Thiện Các Biện Pháp Phòng Ngừa, Quản Lý Rủi Ro Trong Hoạt Động Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu
- Giải pháp phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội - 15
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
134 147 | 122 128 | 91 87 | 20 8 | 15% 5% | 51 39 | 38% 20% | 38 92 | 28% 63% | 42 126 | 31% 85% | |
Tổng | 281 | 250 | 89 | 28 | 10% | 90 | 32% | 130 | 46% | 168 | 60% |
(Nguồn: Báo cáo điều tra của phòng nhân sự hành chính năm 2007)
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ và thống kê chưa được thực hiện đầy đủ
Việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ và thống kê chưa được thực hiện chặt chẽ. Năm 2003, Ngân hàng Quân Đội đã thành lập phòng kiểm tra và kiểm soát nội bộ nhưng hoạt động vẫn chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó, công tác thống kê, phân loại nguyên nhân khách hàng nợ quá hạn chưa được thực hiện một cách thường xuyên và đầy đủ; đồng thời vẫn còn tình trạng chạy theo số lượng, chưa chú trọng việc phản ánh chính xác nợ vay của các bộ phận kinh doanh trong khi đó bộ phận kiểm soát nội bộ chưa đủ người để có thể đánh giá kịp thời.
Cơ sở vật chất và mạng lưới phục vụ hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế
Hệ thống Ngân hàng Quân Đội đã được kiện toàn song chưa phát triển mạng lưới ở các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế của đất nước như: Cần Thơ, Bà Rịa – Vũng Tàu… nên không cung cấp được các dịch vụ ngân hàng
cho các khách hàng ở các trung tâm kinh tế này. Hiện nay, Ngân hàng Quân Đội chủ yếu cung cấp dịch vụ ngân hàng mà mình có, chưa cung cấp đầy đủ các dịch vụ mà khách hàng cần (như cho vay thấu chi, Option…). Điều đó ảnh hưởng đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
Hiệu quả hợp tác giữa Ngân hàng Quân Đội và các ngân hàng đại lý còn hạn chế, thể hiện ở việc nhiều thông báo L/C xuất khẩu không được thông báo qua Ngân hàng Quân Đội. Các quy định về tiêu chuẩn thiết lập quan hệ đại lý của Ngân hàng Quân Đội chưa được thực sự thông thoáng. Mặt khác, khách hàng nước ngoài phần nhiều chưa biến đến Ngân hàng Quân Đội hoặc chưa đặt niềm tin và việc xuất trình các thủ tục đòi tiền xuất khẩu qua Ngân hàng Quân Đội.
3.2. Nguyên nhân khách quan
Một là, hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng có nhiều bất cập. Các văn bản quy định về thủ tục xuất nhập khẩu như thuế quan, hải quan... còn chưa ổn định, thiếu tính đồng bộ. Nhiều chính sách ban hành chưa lâu đã thay đổi nên ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hai là, môi trường kinh tế vĩ mô còn rất nhiều khó khăn, bất ổn và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nền kinh tế còn trong tình trạng lạc hậu, thị trường lại nhỏ hẹp. Hơn 80% doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hầu hết đều gặp khó khăn trong sản xuất và kinh doanh do công nghệ lạc hậu, vốn tự có ít, chất lượng sản phẩm chưa cao, khó cạnh tranh được với hàng ngoại nhập... Các doanh nghiệp nước ngoài một số ít làm ăn lành mạnh và có hiệu quả, số còn lại làm ăn thua lỗ hoặc tìm cách để trốn thuế, trốn trách các nghiệp vụ bảo hiểm xã hội đối với người lao động.
Ba là, vấn đề quy hoạch cấp phép đầu tư chưa tốt. Chính phủ chưa có chiến lược, giải pháp tổng thể hỗ trợ kịp thời đối với các doanh nghiệp xuất khẩu đặc biệt là khâu tiêu thụ sản phẩm.
Bốn là, chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn nhiều bất cập.Việc xác định tỷ giá chưa phản ánh đúng thực tế, dẫn đến sự chênh lệch khá lớn giữa thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do dẫn đến sự thua thiệt cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thực hiện thanh toán quốc tế qua ngân hàng.
Năm là, Pháp lệnh về kế toán thống kê chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng thông tin tín dụng. Về kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp chỉ mang tính hình thức trong khi các doanh nghiệp không chịu kiểm toán độc lập và chi phí cao, nhiều thông tin tài chính bị lộ tẩy... Vì vậy, tính minh bạch của báo cáo tài chính gửi lên ngân hàng xin tài trợ xuất nhập khẩu không được bảo đảm.
Sáu là, việc cung cấp thông tin về thị trường, về đối tác kinh doanh không được các ngân hàng thương mại Việt Nam, các cơ quan chức năng liên quan quan tâm đúng mức, làm cho các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu thường không hiểu rõ về thị trường, về đối tác, về luật pháp các nước trên thế giới... ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công của thương vụ. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa thực sự phát huy hiệu quả, chưa có một quy chế đủ hiệu lực đưa các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng trên địa bàn vào cùng một guồng máy để có sự hợp tác và tương trợ lẫn nhau trong việc đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời. Hiện nay ở Việt Nam, ngoài Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước CIC thì cũng chưa có một công ty định mức tín dụng chuyên nghiệp nào cung cấp dịch vụ điều tra, phân tích thông tin tài chính, định mức tín nhiệm và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế nhằm hỗ trợ ngân hàng trong quá trình thẩm định khách hàng trước khi đưa ra quyết định cho vay. Chính việc thiếu nguồn thông tin một cách đa dạng, chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp đã khiến việc sử
dụng vốn vay của Ngân hàng Quân Đội vẫn còn gặp nhiều khó khăn và tiềm ẩn nhiều rủi ro tín dụng.
Bảy là, năng lực sản xuất kinh doanh, năng lực về vốn và quản lý điều hành của các doanh nghiệp còn thấp, thể hiện ở trình độ công nghệ sản xuất còn lạc hậu, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm không cao, không có khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Tám là, khả năng tài trợ vốn cho các khách hàng này thấp do khó khăn trong việc tìm kiếm những phương án, dự án khả thi có hiệu quả, khả năng đáp ứng đủ các điều kiện tín dụng theo quy định của doanh nghiệp thấp.
Ngoài các nguyên nhân chính trên thì rủi ro đạo đức khách hàng cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng. Trên thực tế, Ngân hàng Quân Đội đã cố gắng hạn chế rủi ro này bằng cách sàng lọc và lựa chọn kỹ khách hàng, tuy nhiên rủi ro về đạo đức vẫn có khả năng xảy ra kể cả khi có sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
I. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội
1. Định hướng chung
Trong bối cảnh kinh tế đất nước đang hội nhập với nền kinh tế quốc tế và khu vực, môi trường cạnh tranh giữa các định chế tài chính trong và ngoài nước ngày càng gay gắt, Ngân hàng Quân Đội xác định: “Việc đổi mới ngân hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường năng lực kiểm soát rủi ro và hiệu quả hoạt động đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của Ngân hàng”.
Qua đó, Ngân hàng Quân Đội đã xác định được hướng đi riêng cho mình với mục tiêu trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam ở các mảng thị trường đã lựa chọn, trong đó tập trung “tạo một vị thế mạnh trong thị trường tiêu dùng”.
Trên cơ sở những mục tiêu chiến lược đã lựa chọn, Ngân hàng Quân Đội đã triển khai xây dựng và tập trung chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển trong những năm tiếp theo vào những mặt sau:
Tăng cường năng lực tài chính: Đây là một hoạt động vô cùng cần thiết góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Theo chiến lược của Ngân hàng, Ngân hàng sẽ tăng vốn điều lệ hàng năm trung bình 64% để đạt quy mô 7.300 tỷ đồng vào cuối năm 2010, đảm bảo tốt tỷ lệ an toàn vốn theo tiêu chuẩn quốc tế.
Đổi mới mô hình tổ chức: tập trung vào chiến lược kinh doanh mới theo định hướng khách hàng và tăng cường năng lực quản lý rủi ro. Với mô hình tổ chức này, hoạt động quản lý và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được phân tách rõ ràng theo mô hình tiên tiến trên thế giới. Đồng thời việc kiểm soát rủi ro sẽ được thực hiện thống nhất nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất trong giới hạn có thể chấp nhận được của Ngân hàng.
Phát triển hệ thống công nghệ thông tin: tập trung đầu tư nhằm xây dựng một hệ thống vững mạnh đáp ứng nhu cầu phát triển không ngừng của Ngân hàng và mang lại cho khách hàng những sản phẩm có hàm lượng công nghệ thông tin cao, tiên tiến với chất lượng tốt. Để đạt được mục tiêu này,