qui mô dư nợ từ đó nhằm cung cấp khép kín các dịch vụ cho nhóm khách hàng này
đồng thời kiểm soát được dòng tiền từ khâu sản xuất đến tiêu thụ.
3.2.1.6. Phát huy hiệu quả công cụ xử lý nợ xấu trong quản lý chất lượng tín dụng
Thu hồi nợ vay là kết quả của quá trình cho vay đầu tư, việc thu hồi nợ vay thể hiện hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư vay, cũng như đảm bảo thu nhập của Ngân hàng. Công tác thu hồi nợ vay là công việc phức tạp và quan trọng nhất đối với bất kỳ tổ chức tín dụng nào. Để đảm bảo nguồn vốn tái đầu tư cho xã hội và bảo toàn vốn, BIDV Phú Thọcần phải đẩy mạnh công tác thu nợ và xử lý đối với các khoản nợ qua một số biện pháp sau:
+ Tăng cường công tác đôn đốc thu hồi nợ, đặc biệt là đối với các khoản nợ quá hạn, gắn trách nhiệm của cán bộ với kết quả hoàn thành kế hoạch thu nợ được giao, cán bộ tín dụng phải thường xuyên bám sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tổng hợp phân tích báo cáo tài chính hàng quý, hàng năm của chủ đầu tư.
+ Khi phát hiện doanh nghiệp gặp khó khăn không thể thực hiện việc trả nợ theo đúng hợp đồng thì ngay lập tức cần phối hợp với chủ đầu tư làm rõ nguyên nhân và đề xuất các giải pháp xử lý khó khăn và yêu cầu chủ đầu tư triệt để áp dụng, đặc biệt là những biện pháp liên quan đến việc tiết giảm chi phí, giảm mức hàng tồn kho, tích cực thu hồi công nợ, thanh lý những tài sản không sử dụng; đề nghị doanh nghiệp tổ chức lại hệ thống sản xuất kinh doanh, thay đổi máy móc thiết bị và công nghệ.
- Ngân hàng cần nhanh chóng thành lập bộ phận chuyên trách thực hiện công việc xử lý và thu hồi nợ. Bộ phận này cần từ bốn đến tám người tuỳ theo mức độ tăng trưởng của dư nợ tín dụng quá hạn. Các nhân viên trong bộ phận này không nên kiêm nhiệm các công việc khác (thực trạng hiện nay của Ngân hàng) mà phải giành toàn bộ thời gian cho công việc xử lý và thu hồi nợ.
- Do đặc thù của công việc xử lý và thu hồi nợ không giống như công việc thẩm định thuần tuý nên Ngân hàng cần tổ chức cho các nhân viên trong bộ phận xử lý và thu hồi nợ tham gia các khoá học chuyên môn hoá để nâng cao trình độ và kinh nghiệm. Ngoài yêu cầu nắm chắc nghiệp vụ chuyên môn về quy chế, quy trình
tín dụng, các nhân viên trong bộ phận này còn phải có trình độ chuyên sâu về luật, có khả năng phân tích tâm lý và thuyết phục khách hàng.
- Ngân hàng cần trao quyền chủ động cho bộ phận này mạnh dạn áp dụng các chế tài theo quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết các khoản nợ vay tồn đọng một cách có hiệu quả nhất.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Chỉ Tiêu Hoạt Động Tín Dụng Khác Tại Bidv Phú Thọ Chi Phí Vốn Vay (Lãi Suất Tiền Vay)
- Đánh Giá Chung Về Chất Lượng Tín Dụng Tại Bidv Phú Thọ
- Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Tại Bidv Phú Thọ
- Nhóm Giải Pháp Liên Quan Đến Khách Hàng
- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Phú Thọ - 14
- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Phú Thọ - 15
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
3.2.1.7. Tập trung thu hồi lãi treo và giảm tỷ trọng nợ nhóm 2:
Tỷ trọng nợ nhóm 2 tại Chi nhánh hiện tại ở mức cao (Chiếm 12%/Tổng dư nợ cuối năm 2012). Đây là nguy cơ tiềm ẩn bùng phát nợ xấu tại Chi nhánh. Để hạn chế, một mặt đối với các khách hàng được đánh giá là bị khó khăn tạm thời ngân hàng cần thường xuyên bám sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ hỗ trợ cho sản xuất của doanh nghiệp phát triển từ đó xếp hạng doanh nghiệp sẽ được cải thiện và chuyển lên nhóm 1 sau 3 đến 6 tháng. Mặt khác đối với các khách hàng được đánh giá là quá khó khăn không còn cơ hội phục hồi sản xuất cần khẩn trương xây dựng các biện pháp để thu hồi nợ vay theo phương án giảm dần dư nợ. Bên cạnh các phương án trên cần tiếp tục mở rộng cho vay đối với các lĩnh vực ngành nghề kinh doanh ít rủi ro hơn nhằm tăng dư nợ để giảm tỷ lệ nợ nhóm 2.
Đối với lãi treo, hiện tại số lãi treo của chi nhánh là 13 tỷ đồng chiếm 20% lợi nhuận năm 2012 của chi nhánh. Đây cũng là một điểm làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng vì không thu được lãi sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh dẫn đến việc sử dụng vốn sẽ không hiệu quả. Chi nhánh cần tập trung chỉ đạo xử lý dứt điểm đối với số lãi phải thu hiện tại với các biện pháp cụ thể.
+ Đối với Chi nhánh: Giao trách nhiệm đến từng cán bộ và coi đây là chỉ tiêu bắt buộc làm cơ sở đánh giá xếp loại cán bộ hàng tháng, quý.
+ Đối với doanh nghiệp: nếu có thiện chí trả nợ sẽ miễn giảm một phần lãi phạt quá hạn để giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về tài chính đồng thời tiếp tục cho vay đối với các phương án kinh doanh mới có tính khả thi của khách hàng. Với các doanh nghiệp trây ỳ cố tình không trả nợ cần áp dụng các biện pháp cương quyết để thu hồi nợ kể cả việc phát mại tài sản và khởi kiện ra tòa kinh tế.
3.2.2. Nhóm giải pháp về nâng cao công nghệ ngân hàng
3.2.2.1. Về trang thiết bị
Để nâng cao công nghệ ngân hàng thì điều kiện cần là phải nâng cao trang thiết bị cho hoạt động của ngân hàng. Nó bao gồm toàn bộ hệ thống thiết bị phần cứng và phần mềm tạo điều kiện cho hoạt động được hiện đại.
Ngày nay, công nghệ thông tin liên tục phát triển với tốc độ nhanh chóng. Việc sở hữu những công nghệ mới nhất là một trong những thuận lợi giúp cho ngân hàng giảm được nguồn lực về con người, tăng cường được sức cạnh tranh. Đồng thời nó tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao được chất lượng tín dụng thông qua việc rút gọn thời gian để thực hiện các bước quản lý tín dụng, nâng cao được hiệu quả trong các bước thực hiện quản lý tín dụng như rút ngắn và nâng cao chất lượng thẩm định, nâng cao chất lượng thông tin quản lý,...
3.2.2.2. Về thông tin
Trong thời gian qua, việc xây dựng hệ thống các quy trình nghiệp vụ tín dụng hoàn chỉnh làm cơ sở cho hoạt động tín dụng trong toàn hệ thống và triển khai nghiêm túc trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh BIDV Phú Thọ thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên, phải khẳng định khó khăn lớn nhất đối với công tác tín dụng là thiếu các nguồn thông tin đầy đủ, kịp thời và tin cậy. Do vậy, việc xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống thông tin đảm bảo cung cấp chính xác, kịp thời, đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ công tác tín dụng là yêu cầu bức thiết của ngân hàng.
Đối với các thông tin nội bộ của doanh nghiệp, một yêu cầu bắt buộc cho các số liệu tài chính sử dụng trong quá trình phân tích là cán bộ tín dụng phải kiểm tra, thẩm định được tính chính xác và hợp lý của chúng, đảm bảo số liệu phải phản ánh đúng bản chất các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Công việc này đã được cán bộ tín dụng BIDV - Chi nhánh Phú Thọ thực hiện nhưng đôi khi chỉ mang tính lý thuyết, không gắn với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Ngay cả đối với các quy định cho vay được ban hành và áp dụng chung trong toàn hệ thống BIDV thì các số liệu trên các báo cáo tài chính đã được kiểm toán rất được xem trọng và gần như đã được coi là chính xác. Tuy nhiên, trong thực tế, rất nhiều báo cáo tài chính của doanh nghiệp đã được kiểm toán nhưng không thể khẳng định được tính trung thực và phù hợp của số liệu trình bày. Điều này có thể đã được chỉ rõ trong báo cáo về
hạn chế kiểm toán song đôi khi cán bộ tín dụng do thiếu kinh nghiệm nên đã bỏ qua. Trường hợp điển hình là doanh nghiệp đã mời kiểm toán sau khi kết thúc năm tài chính nên kiểm toán viên không thể trực tiếp chứng kiến và tham gia vào một số công việc quan trọng như: Kiểm kê hàng tồn kho, tiền mặt,…. Do đó, các số liệu trình bày trên báo cáo trong trường hợp này hầu như chỉ do doanh nghiệp cung cấp và dựa vào sổ sách kế toán tại doanh nghiệp, không được kiểm tra thực tế nên không hẳn lúc nào cũng đảm bảo chính xác. Để hạn chế tình trạng này, ngân hàng cần tư vấn và yêu cầu doanh nghiệp chủ động ký hợp đồng mời cơ quan kiểm toán trước khi kết thúc năm tài chính. Như vậy, cơ quan kiểm toán có thể trực tiếp cùng tiến hành kiểm tra thực tế các số liệu thời điểm kết thúc năm tài chính với doanh nghiệp và độ tin cậy của các thông tin trình bày trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp sẽ được nâng lên rất nhiều. Khi đó, các kết quả phân tích sẽ có độ chính xác cao và thực sự hữu ích cho lãnh đạo trong việc ra quyết định.
Đối với các thông tin bên ngoài doanh nghiệp, chi nhánh cần chủ động khai thác thêm thông tin từ các bạn hàng và các đối thủ cạnh tranh của khách hàng, thông tin từ các hiệp hội, ngành nghề kinh doanh, thông tin trao đổi giữa các NHTM,... Những thông tin này không xuất phát từ chính bản thân khách hàng nên có tính khách quan và do đó, những thông tin này giúp ngân hàng thẩm định tốt hơn khả năng tài chính của phương án/dự án khi đánh giá được tương đối toàn diện những rủi ro về thị trường, về đối thủ cạnh tranh, khả năng quản lý ... có thể xẩy ra.
Ngoài ra, thông tin từ báo chí, từ mạng thông tin toàn cầu, từ các cơ quan quản lý (bộ, ngành chủ quan), cơ quan thống kê, các công ty kiểm toán, ... cũng cần được tích cực khai thác. Ngân hàng BIDVcần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan này vì mục tiêu phục vụ lâu dài cho các hoạt động của ngân hàng.
Hiện nay cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng, Việt Nam đang được coi là một thị trường đầu tư đầy tiềm năng. Do đó đã có một số công ty tài chính, tổ chức nước ngoài thực hiện việc nghiên cứu, tổng hợp và phân tích thị trường khá quy mô, đưa ra những phân tích, dự đoán vĩ mô về nền kinh tế. Cán bộ tín dụng cũng cần tiếp cận với các nguồn thông tin này để có thể bổ sung nguồn thông tin cần thiết cho việc phân tích. Công việc này càng cần thiết đối
với BIDV- Chi nhánh Phú Thọ khi một trong những định hướng đầu tư quan trọng của chi nhánh là tập trung đầu tư cho các khách hàng, Công ty lớn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
3.2.3. Giải pháp về nhân lực
3.2.3.1 Nâng cao năng lực và tiến hành chuyên môn hoá đội ngũ nhân viên tín dụng
Muốn nâng cao chất lượng tín dụng thì một yếu tố không thể thiếu thuộc về người cán bộ tín dụng với tư cách chủ thể cho vay trong quan hệ tín dụng. Người làm tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính cũng như tiềm năng phát triển của khách hàng. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cần phải có vốn hiểu biết nhất định về thị trường và lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của mình đang tiến hành sản xuất kinh doanh vì nó liên quan trực tiếp đến chất lượng của từng món vay. Vì vậy, cần có sự chuyên môn hoá trong cán bộ tín dụng. Ngân hàng nên phân công mỗi cán bộ tín dụng phụ trách một mảng cho vay nhất định được chia theo ngành. Việc chuyên môn hoá như vậy sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng dễ dàng giám sát, sát cánh cùng khách hàng trong vấn đề quản lý vốn.
Bên cạnh việc thực hiện chuyên môn hoá ngân hàng phải không ngừng nâng cao kiến thức cho cán bộ tín dụng bằng cách định kỳ mở các lớp huấn luyện bồi dưỡng cán bộ về nghiệp vụ, thị trường, công nghệ. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế nói chung và của lĩnh vực ngân hàng nói riêng thì yêu cầu cần thiết đối với cán bộ tín dụng là kiến thức về tin học và ngoại ngữ. Đây là hai yếu tố giúp cán bộ tín dụng vững vàng, tự tin hơn trong công việc của mình. Vì vậy, Ngân hàng cần tạo điều kiện, khuyến khích cán bộ tín dụng nâng cao trình độ, tạo cho họ điều kiện học tập, nghiên cứu.
Đối với cán bộ tín dụng cần những tiêu chuẩn sau:
- Đối với cán bộ hoạch định chính sách tín dụng:
+ Phải là người có lý luận nghiệp vụ về lĩnh vực ngân hàng vững vàng, kiến thức về kinh tế tổng hợp, phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường, giàu kinh nghiệm thực tế, khả năng tổng hợp tốt. Có như vậy mới đủ khả năng xem
xét nhu cầu tín dụng một cách tổng quát và chính xác. Từ đó hoạch định chính sách
và phương pháp giải quyết.
+ Phải có kiến thức pháp luật. Hoạt động kinh doanh tín dụng rất phong phú, đa dạng, có liên quan đến hầu hết các ngành, các thành phần kinh tế. Do vậy cũng liên quan đến hầu hết các ngành luật của hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế. Để tránh mâu thuẫn chồng chéo đảm bảo vừa đúng pháp luật, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, các nhà hoạch định phải am hiểu pháp luật một cách sâu sắc. Để làm được điều này, ngân hàng thường xuyên có những cuộc hội đàm, hội thảo những lĩnh vực pháp luật có liên quan. Cử các cán bộ đi học hoặc mời các chuyên gia về pháp luật.
+ Phải có kiến thức dự báo, kiến thức ngoại ngữ, tin học. Đây là cơ sở, phương tiện tiếp cận với cái mới, lường trước những biến động trong tương lai. Đặc biệt phải có kiến thức về Marketing ngân hàng, đây là lĩnh vực mới áp dụng nhưng phát triển rất nhanh chóng, có được kiến thức marketing, người hoạch định vừa có trình độ lý luận, vừa có khả năng thiết lập kênh phân phối, dự báo và ra quyết định. Trên cơ sở đó khai thác triệt để khách hàng hiện có và có chiến lược khai thác khách hàng tiềm năng. Đây là kế hoạch có tính lâu dài, cần thiết cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng nên thiết lập mối quan hệ với các trung tâm nghiên cứu về lĩnh vực ngân hàng để tiếp cận với cái mới từng bước trang bị kiến thức cho cán bộ của Ngân hàng.
- Đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động tín dụng, ngoài những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ, cần nhấn mạnh những điểm sau:
+ Phải nắm chắc kiến thức pháp luật cả về kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng.
+ Phải hiểu thấu đáo các quy định, thể chế để vận dụng một cách linh hoạt.
+ Phải có khả năng phân tích những chỗ sai đúng của chính sách, chế độ từ đó cần làm và tránh những gì.
+ Phải có kiến thức về khoa học tâm lý, trình độ ngoại ngữ và tin học.
- Đối với cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng và tiến hành thẩm định dự án đề xuất lãnh đạo ra quyết định, đồng thời giám sát dự án này. Đây
là những cán bộ thừa hành tác nghiệp, quyết định đúng sai của người lãnh đạo phụ thuộc khá nhiều vào đội ngũ này. Do đó, ngoài tiêu chuẩn chung, đòi hỏi họ phải có những người trung thực, khách quan, thẳng thắn, kiên định rõ ràng, giám bảo vệ cái đúng, đấu tranh với những cái sai, có ý thức bảo vệ tài sản của Ngân hàng. Ngoài trình độ chuyên môn về nghiệp vụ, cán bộ trực tiếp tác nghiệp phải sâu sát thực tế, hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, nắm vững pháp luật và những vấn đề có liên quan. Trong điều kiện này, tồn tại tiêu cực xã hội là tất yếu, khó tránh khỏi khách hàng dùng thủ đoạn tinh vi lừa đảo, lập hồ sơ giả, thế chấp giả, vốn sử dụng sai mục đích. Cụ thể như vụ án vợ chồng Hồ Minh Hậu -Phạm Thị Ái Loan thuộc công ty Cp XNK An Bình Phú, cán bộ tín dụng đã không kiểm tra tài sản đảm bảo nợ vay, tư cách pháp nhân của một số đơn vị khách hàng liên quan. Hậu quả để lại như chúng ta đã biết là làm thất thoát vốn của Nhà nước lên tới hơn 400 tỷ đồng. Để phát hiện những hành vi sai trái này, cán bộ cần có năng lực nghề nghiệp trong kiểm tra thẩm định dự án, biết dùng thủ pháp nghệ thuật khi cần thiết. Cần có tâm lý và thái độ đúng mực khi giao tiếp khách hàng lần đầu, thái độ thực sự thoải mái.
Theo tôi, Ngân hàng cần tổ chức các đợt kiểm tra về cán bộ tín dụng trên lĩnh vực sau: Nghiệp vụ; Pháp luật; Tâm lý; Tin học.
- Cần kết hợp các trường đại học tiến hành ra các câu hỏi trắc nghiệm và tình huống thực tế để phân ra các loại sau:
- Cán bộ tín dụng bậc I, chuyên xem xét thẩm định các món vay nhỏ.
- Cán bộ tín dụng bậc II, chuyên xem xét, thẩm định các món vay vừa.
- Cán bộ tín dụng bậc III, chuyên xem xét, thẩm định dự án lớn, tái thẩm
định dự án vừa.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, cán bộ ngân hàng nghiên cứu lĩnh vực nào thì trong công việc nên giao cho họ đúng lĩnh vực đó.
Ngân hàng cần nâng cao trách nhiệm cá nhân. Đối với các dự án nhỏ, cán bộ tín dụng có thể tự quyết định sau khi xem xét.
Cuối cùng, ngân hàng nên dùng lợi ích cá nhân để nâng cao trách nhiệm cán bộ tín dụng, gắn lợi ích của họ với công việc. Nếu làm tốt được thưởng, nếu cố ý làm sai, tuỳ theo mức độ xử phạt bằng kinh tế hay có mức độ cao hơn.
Để đáp ứng được các yêu cầu đó, BIDV- Chi nhánh Phú Thọ cần tập trung vào những công việc sau:
Về tuyển dụng cán bộ: Đặc điểm của công tác phân tích là yêu cầu người thực hiện phải có kiến thức tổng hợp về kế toán,tài chính và các kiến thức xã hội khác. Do vậy, chi nhánh cần có những chính sách hợp lý để ưu tiên thu hút những sinh viên giỏi của các trường thuộc các chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng, thương mại, pháp lý cũng như những người có trình độ, năng lực, kinh nghiệm về tín dụng và phân tích tài chính để làm việc. Ngoài ra có thể lựa chọn những cán bộ đã có kinh nghiệm, năng lực ở các bộ phận khác như giao dịch viên, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán ... để đào tạo bổ sung lực lượng cho đội ngũ cán bộ tín dụng.
Về sử dụng cán bộ: Chi nhánh cần căn cứ vào tính chất phức tạp của từng đối tượng khách hàng và năng lực, đạo đức của từng cán bộ để phân công công việc cho phù hợp; đặt kế hoạch bồi dưỡng hay chuyển sang làm công việc khác đối với những cán bộ không đáp ứng các yêu cầu công việc. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần nghiên cứu ban hành những quy định, chế tài xử lý nghiêm khắc những cán bộ vì lợi ích cá nhân, vì thiếu tinh thần trách nhiệm gây thất thoát vốn ngân hàng .
Về cơ chế đãi ngộ: Chi nhánh cần nghiên cứu và triển khai cơ chế động lực một cách hợp lý để thực sự có tác dụng tích cực kích thích cán bộ tín dụng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ: Hoạt động tín dụng nói chung và công tác phân tích tài chính trong hoạt động cho vay nói riêng đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải cập nhật các kiến thức mới cả về chuyên môn nghiệp vụ cũng như các kiến thức tổng hợp khác về pháp lý, kinh tế-xã hội khác. Cán bộ giảng dạy có thể là chính các cán bộ tín dụng, thẩm định có trình độ, kinh nghiệm của ngân hàng hoặc thuê các chuyên gia từ Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, giảng viên các trường đại học có uy tín như Đại học Kinh tế Quốc dân, đại học Ngoại thương, Học viên ngân hàng, Học viện tài chính, ...
3.2.3.2 Cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho nhân viên tín dụng
Như đã nói ở phần trên, công việc thẩm định tín dụng rất phức tạp, đặc biệt là đối với các dự án lớn. Người thẩm định ngoài yêu cầu phải có kiến thức sâu rộng còn phải có thu thập được những thông tin cần thiết liên quan đến dự án. Vì vậy,