Những Hạn Chế Trong Công Tác Tài Trợ Dự Án Cho Các Dnvvn Tại Maritime Bank Vũng Tàu.


Ngân hàng đã chú trọng đến công tác phòng ngừa và quản lý rủi ro tín dụng. Quản lý tín dụng được đặc biệt kiện toàn, cụ thể là: xây dựng chính sách tín dụng trong đó thực hiện nghiêm túc quy định, chế độ, quy trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng, xác định rõ các giới hạn cho vay để định hướng cho việc tăng trưởng tín dụng trong tầm kiểm soát. Nhiệm vụ này sẽ tiếp tục được đẩy mạnh trong các năm tới nhưng không chỉ dừng ở chỗ phát hiện và yêu cầu khắc phục mà còn phải phân tích nguyên nhân, đề xuất biện pháp giải quyết thích hợp và triệt để.

Với những kết quả trên, có thể kết luận rằng những biện pháp mà Maritime Bank Vũng Tàu đã áp dụng trong thời gian qua nhằm hạn chế và ngăn ngừa rủi ro tín dụng đã có những tác dụng nhất định, chất lượng tín dụng phần nào cũng được cải thiện và quan trọng nhất là đã được nhìn nhận và đánh giá đúng hướng, đúng bản chất.Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn nhiều tồn tại cần được khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hiệu quả hoạt động tín dụng nói riêng. Cụ thể là tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ vẫn còn khá cao chiếm 1.6%, đồng thời việc xử lý nợ xấu, thu hồi lãi và gốc còn gặp nhiều khó khăn, nguy cơ gia hạn nợ và phát sinh nợ quá hạn vẫn lớn, ngay cả đối với một số món nợ chưa đến hạn nhưng chất lượng tín dụng không cao.

Tóm lại, với mọi nỗ lực nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng cho thấy công tác tín dụng tại Maritime Bank Vũng Tàu trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng kể: quy mô tăng trưởng dư nợ tín dụng ở mức cao, tỷ trọng nợ quá hạn chiếm tỷ lệ thấp so với tổng dư nợ và do hoạt động này vẫn luôn ẩn chứa nhiều rủi ro vì vậy cần có biện pháp kiểm soát và ngăn ngừa.

2.2 Những hạn chế trong công tác tài trợ dự án cho các DNVVN tại Maritime Bank Vũng Tàu.

Ngoài các lý do khách quan xuất phát từ tình hình kinh tế vĩ mô còn nhiều biến động, ngoài tầm kiểm soát, dự đoán của con người, các lý do chủ quan, nhược điểm nội tại của bản thân của ngân hàng cũng góp phần đáng kể dẫn đến việc thẩm định cho vay chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn.


2.2.1 Thông tin dự án chưa đầy đủ và đúng đắn

Thông tin dự án đầy đủ và đúng đắn là yếu tố quyết định để đánh giá khả năng trả nợ và thiện chí trả nợ của người vay, đồng thời là cơ sở để mở rộng tín dụng. Trong hồ sơ tín dụng của khách hàng, Tổ chức tín dụng cần phải có các thông tin rõ ràng về dự án (Hồ sơ pháp lý của dự án, đánh giá cung cầu sản phẩm, đánh giá về thị trường nguyên liệu, tính khả thi của dự án …) . Thêm vào đó là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp: như bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,… Và thông tin dự án cũng cần minh chứng cụ thể mục đích, yêu cầu vay, kế hoạch dự định và nguồn chi trả, báo cáo tiến độ và giám sát.

Trong quá trình cấp tín dụng cho dự án, rủi ro phát sinh phần lớn là do thiếu thông tin khi thẩm định và khi ra quyết định tài trợ; từ đó dẫn đến những quyết định cho tài trợ dự án sai lầm. Cụ thể như là:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

- Nhân viên RM (Nhân viên quan hệ khách hàng) thiếu năng lực thẩm định dự án, thu thập thông tin về khách hàng và các thông tin về dự án yêu cầu tài trợ của KH và đôi khi hoàn toàn dựa trên tài liệu do khách hàng cung cấp, thiếu sự xác minh lại thông tin và thiếu sự phân tích tính hợp lý của thông tin nên tờ trình thẩm định khách hàng được trình bày rất suôn sẻ theo các khuôn mẫu có sẵn và chứa đựng các thông tin có lợi cho khách hàng.

- Về phía người xét duyệt cho vay, do khối lượng hồ sơ vay cần được xét duyệt quá nhiều nên không có nhiều thời gian đọc kỹ tờ trình thẩm định dự án, do cảm thấy an tâm khi đọc những thông tin về tài sản đảm bảo, do quá tin tưởng vào những thông tin mà nhân viên RM đưa ra và sự kiểm tra của cấp dưới mà quyết định xét duyệt cho vay.

Giải pháp nâng cao chất lượng tài trợ dự án cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Vũng Tàu - 9

Ngoài ra, do hệ thống thông tin nội bộ của Ngân hàng còn yếu, hầu như chưa có thư viện thông tin về các lĩnh vực kinh tế, các doanh nghiệp có quan hệ trong hệ thống nên nhân viên RM khó có thể có một nhận định chính xác về quá trình hoặc môi trường hoạt động của khách hàng. Đồng thời, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, do hoạt động kiểm toán chưa phát triển và tính minh bạch về tài chính còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó, do côngtác kế toán và báo cáo tài chính chưa thực hiện


đầy đủ theo quy định của pháp luật nên các Tổ chức tín dụng thường gặp nhiều khó

khăn về tính chính xác của thông tin do khách hàng cung cấp.


2.2.2 Ngân hàng chỉ tập trung tài sản thế chấp của DNVVN khi tài trợ dự án.

Do thiếu thông tin trung thực về khách hàng nên ngân hàng luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, dần dần ngân hàng trở nên dựa dẫm quá nhiều vào tài sản thế chấp thay vì đánh giá tính khả thi của phương án kinh doanh nên sẽ dễ dẫn đến tâm lý ỷ lại và khi ấy sẽ dễ mắc sai lầm chủ quan. Nhiều nhân viên RM, ngay cả những người xét duyệt cho vay quan niệm rằng có tài sản đảm bảo là an toàn cho khoản vay. Điều này rất nguy hiểm vì khoản vay cần được trả nợ bằng dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến mà thôi. Hơn nữa, nếu rủi ro xảy ra thì ngân hàng cũng sẽ gặp những khó khăn trong quá trình xử lý tài sản thế chấp để thu nợ, chẳng hạn như là: nếu không thỏa thuận được việc xử lý tài sản với chủ tài sản thì ngân hàng không thể tự xử lý được, việc bán tài sản đảm bảo cũng đòi hỏi ngân hàng thực hiện hàng loạt các thủ tục rườm rà, thực hiện chậm và thậm chí giá trị tài sản thanh lý sau cùng thu về có thể thấp hơn giá trị nợ phải thu hồi,…


2.2.3 Thiếu kiểm tra giám sát vốn vay

Trong thời gian cho vay, Tổ chức tín dụng cần thực hiện đầy đủ việc kiểm tra giám sát khoản vay để có thể nắm được những thay đổi trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích hay không? Tài sản đảm bảo có được quản lý tốt hay không? Để bảo đảm được khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Vì vậy, đây là trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian qua, Ngân hàng chưa thực hiện tốt công tác này, nguyên nhân là:


- Do chạy theo thành tích “chỉ tiêu dư nợ” nên cán bộ tín dụng ưu tiên giải quyết các hồ sơ mới và do tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng nên cán bộ tín dụng chưa quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra giám sát sau khi cho vay.

- Mặc dù Ngân hàng có quy định rõ về việc kiểm tra giám sát sau khi cho vay nhưng vẫn còn lỏng lẻo trong việc kiểm soát sự tuân thủ của nhân viên tín dụng, vì thế các nhân viên tín dụng đã không thực hiện đầy đủ quy định này hoặc nếu có thực hiện thì cũng chỉ mang tính hình thức, đối phó bằng cách gửi biên bản kiểm tra cho khách hàng ký mà thực tế lại không kiểm tra tại đơn vị hoặc chỉ làm biên bản kiểm tra khi có sự kiểm tra của kiểm toán nội bộ của ngân hàng và khi có sự thanh tra của Ngân hàng Nhà nước nên dễ dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, đáng lẽ vốn đó được đưa vào dự án của doanh nghiệp nhưng DN lại dung vốn đó để sử dụng cho mụ đích khác hoặc DN gặp khó khăn về tài chính mà vẫn tiếp tục giải ngân cho khách hàng DN trong hạn mức tín dụng đã cấp trước đó, do vậy việc kiểm tra giám sát sẽ không hiệu quả vì thiếu thông tin về những sự cố của khách hàng vay nên những khoản vay lúc khởi đầu vẫn tốt nhưng sau đó trở thành các khoản vay có vấn đề và thua lỗ.

2.2.4 Sự lỏng lẻo trong công tác kiểm soát nội bộ ngân hàng

Kiểm soát nội bộ ngân hàng là tổng thể hệ thống các văn bản và các quy định về Ngân hàng, các cơ chế kiểm soát được cài đặt trong tất cả các nghiệp vụ thuộc hệ điều hành của ngân hàng, hệ thống thông tin báo cáo để kiểm soát hoạt động quản lý, điều hành, tác nghiệp và đảm bảo tính tuân thủ nhằm hạn chế và kiểm soát rủi rocó thể phát sinh trong quy trình nghiệp vụ và hoạt động của ngân hàng. Kiểm soát nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Ngân hàng Nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với côngviệc kinh doanh. Nếu làm tốt, công tác này sẽ trở thành láchắn thứ nhất đảm bảo an toàn cho ngân hàng.

Năm 2010, Ban kiểm soát nội bộ Ngân hàng đã tổ chức lại bộ máy giúp việc là Ban Kiểm toán nội bộ và thể chế hóa hoạt động. Ban Kiểm toán nội bộ gồm có


các bộ phận kiểm toán khu vực, kiểm toán tại chỗ, kiểm toán doanh nghiệp và giám sát từ xa.

Chi tiết hoạt động của các kiểm toán viên tại các chi nhánh như sau:

- Kiểm toán hoạt động tín dụng: kiểm tra các hồ sơ tín dụng đã giải ngân, chú trọng lựa chọn một số tiêu chí theo thứ tự ưu tiên mang tính phát hiện rủi ro trong hoạt động cho vay tại các chi nhánh, đồng thời kiểm tra và phân tích nguyên nhân nợ quá hạn đối với các hồ sơ nợ quá hạn.

- Kiểm soát sau hồ sơ mở tài khoản, hồ sơ mở thẻ.

- Kiểm soát sau chứng từ giao dịch, thẻ, Western Union, chứng từ kế toán.

- Giám sát an toàn kho quỹ.

Năm 2011, Ban Kiểm soát cũng đã chỉ đạo Ban Kiểm toán nội bộ tiến hành kiểm toán tại chỗ 100 đơn vị trực thuộc trong tổng số 170 đơn vị (bao gồm các chi nhánh, phòng giao dịch và các công ty trực thuộc), kiểm tra an toàn kho quỹ trên200 lượt, cũng như tuyển dụng đào tạo thêm 2000 nhân viên trên toàn hệ thống.

Tuy nhiên, hoạt động kiểm soát nội bộ của ngân hàng trong thời gian qua chưa theo kịp với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Công tác này chưa thực hiện đúng nhiệm vụ của nó mà mang nặng tính hình thức. Các báo cáo kiểm soát nội bộ thường chỉ là tổng hợp, phân tích, thống kê các số liệu từ báo cáo của bộ phận tín dụng nên chưa thể hiện được tính độc lập, tính kiểm tra và cảnh báo của mình. Nguyên nhân là do lãnh đạo Ngân hàng chưa thực sự chú trọng đến công tác này và do thiếu nhân sự có đủ trình độ chuyên môn để thực hiện. Nhân sự của Ban Kiểm soát nội bộ thường được tuyển dụng từ nguồn cán bộ tín dụng nhưng do tính chất va chạm và nhạy cảm của công việc này nên các cán bộ tín dụng thường từ chối thuyên chuyển công tác. Còn nguồn nhân sự từ ngành kiểm toán thì thường không am hiểu sâu về công tác tín dụng nên gặp khó khăn trong công việc. Do đó, kiểm soát nội bộ của ngân hàng khó có thể có những nhận định đúng về thực trạng tín dụng của ngân hàng.


2.2.5 Công tác thẩm định rủi ro dự án độc lập chưa được coi trọng và quan

tâm đúng mức.

Việc ra đời bộ phận thẩm định rủi ro tín dụng độc lập (CPC) tại Maritime Bank là cách nhằm tăng cường hơn nữa chất lượng trong thẩm định cho vay và hạn chế rủi ro. Bộ phận này sẽ tham gia kết hợp với bộ phận tín dụng trong việc thẩm định hồ sơ vay với tư cách là bộ phận thẩm định độc lập, có chức năng như là tái thẩm định tài sản đảm bảo, thẩm định dự án với các nội dung mà RM đã tiến hành thu thập. Đây có thể xem là chốt chặn cuối cùng nhằm hạn chế rủi ro trước khi tài trợ cho DN.

Tuy với ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng thực tế áp dụng lại cho thấy, bộ phận này chưa nhận được sự quan tâm đúng mức cũng như chưa phát huy được hết vai trò của mình tại các chi nhánh Ngân Hàng Maritime Bank Vũng Tàu. Một số hạn chế khi triển khai bộ phận này :

RM và cán bộ thẩm định (CCV) rủi ro độc lập thường có mối quan hệ thân thiết, nể nang nhau nên khi thẩm định hồ sơ, cán bộ thẩm định (CCV) thường không có chính kiến riêng mà tùy thuộc quyết định cho vay của RM. Trường hợp cán bộ thẩm định rủi ro độc lập thực hiện đúng nguyên tắc theo quy định lại bị mang thành kiến là tác nhân dẫn đến việc không phát triển dư nợ cho chi nhánh, hạn chế khách hàng nên cũng thường ngại va chạm với bộ phận RM. Từ đó, tạo tâm lý e dè, buông xuôi khi thẩm định rủi ro độc lập. Lực lượng thẩm định rủi ro độc lập còn thiếu và yếu, chưa đủ khả năng để thực hiện tốt vai trò của mình. Thực tế cho thấy tại Maritime Bank Vũng Tàu, lực lượng này là quá mỏng so với yêu cầu của công việc, dẫn đến việc thẩm định rủi ro chỉ mang tính hình thức, cho đủ ban bệ. Cơ chế lựa chọn cán bộ cho bộ phận này cũng chưa được đề cao, các cán bộ thường là mới đôi khi lại là người nhà của lãnh đạo, thân quen, kinh nghiệm không nhiều, khả năng am hiểu về pháp luật, thị trường còn hạn chế, do vậy dẫn đến khả năng nhận định rủi ro là chưa cao, các tờ trình thẩm định dự án rủi ro còn sơ sài, chung chung, chưa đi sâu phân tích các số liệu cụ thể và đề ra các biện pháp hay kiến nghị để khắc phục, hạn chế rủi ro.


Ngoài ra, bộ phận thẩm định rủi ro tín dụng độc lập còn chịu nhiều sự tác động của các cấp quản lý trong quá trình tác nghiệp nên cũng chưa phát huy được hết vai trò là một bộ phận thẩm định độc lập, các kết luận thẩm định nhiều lúc còn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các cấp quản lý.

2.2.6 Năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng cho vay còn hạn chế

Hiện nay, hàng loạt các ngân hàng cổ phần ra đời, cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gia tăng kéo theo là cạnh tranh nguồn nhân lực. Để mở rộng mạng lưới hoạt động phục vụ cho tốc độ tăng trưởng nhanh, ngân hàng cũng đã có chính sách thu hút lao động. Tuy nhiên, việc tuyển dụng lao động đa phần là từ nguồn cán bộ mới ra trường nên chưa đủ kinh nghiệm để thực hiện việc thẩm định cho vay, chưa nhận thức được đầy đủ về yêu cầu và tính phức tạp của công tác ,tín dụng trong môi trường mới. Họ chưa đáp ứng được những đòi hỏi của cơ chế thị trường, cũng như khả năng và trình độ đánh giá đúng hiệu quả và mức độ rủi ro của phương án, dự án còn yếu kém. Không nhận biết được những dấu hiệu rủi ro đôi khi xuất hiện ngay từ giai đoạn tiếp xúc khách hàng, tiếp cận các dự án mới của khách hàng, không đánh giá được tính khả thi và cơ cấu nguồn vốn của dự án, không đánh giá được một cách chính xác nhất nhóm chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời của dự án và khả năng trả nợ của khách hàng.

Khả năng thuyết phục khách hàng của đội ngũ RM, tư vấn các dịch vụ cho vay còn hạn chế (chưa nắm rõ các đặc thù sản phẩm cho vay, tư vấn cho khách hàng chưa đủ) dẫn tới gây khó khăn cho KH khi tiếp cận các nguồn tài trợ từ ngân hàng.

Bên cạnh đó, do khối lượng công việc ngày càng quá tải dẫn đến nguy cơ không kiểm soát được toàn diện và đầy đủ tình hình khách hàng mà mình đang phụ trách. Ngoài ra, tại Ngân hàng, số nhân viên nghỉ việc bình quân hàng năm là 1.5%, mà trong đó đến hơn phân nữa là RM do đó áp lực công việc cho các nhân viên tín dụng (RM) còn lại là rất nặng nề.

Ngoài nguyên nhân về năng lực chuyên môn thì vấn đề đạo đức của RM cũng là nguyên nhân gây rủi ro cho hoạt động tín dụng. Dù RM, những người liên quan đến công tác thẩm định, cho vay đã rất tận tâm nhưng cũng không thể tránh


được hoàn toàn rủi ro. Vì một nguyên nhân khách quan là không phải khách hàng DN nào vay vốn ngân hàng cũng kinh doanh có hiệu quả. Và ở đâu chú trọng đến công tác tín dụng, luôn tuân thủ các quy trình từ xét duyệt cho vay, kiểm tra giám sát việc sử dụng tiền vay, thu hồi nợ, xử lý nợ, luôn nêu cao phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ thì ở đó, chất lượng tín dụng cao và kiểm soát tốt, giảm thiểu rủi ro. Ngược lại, ở đâu sự quan tâm chú trọng không đầy đủ đúng mức thì ở đó chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Và qua kết luận của kiểm tra, kiểm toán nội bộ các ngân hàng, thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, nhiều món vay kém chất lượng, tồn đọng không có khả năng thu hồi và có nguy cơ mất trắng đều có nguyên nhân thẩm định sơ sài, hồ sơ có vấn đề, thiếu kiểm tra kiểm soát. Điều đó một phần là do năng lực của cán bộ liên quan, nhưng một phần không nhỏ gây nên tình trạng đó là một bộ phận cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định,…liên quan đến công tác cho vay bị sa sút về phẩm chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm.

2.2.7 Hạn chế trong việc phân tích tình hình tài chính và dự báo điều hành của DN

Khả năng khai thác thông tin về năng lực điều hành DN còn yếu.

Việc thẩm định yếu tố trên chủ yếu qua khai thác thông tin từ CIC và thực tế tiếp xúc khách hàng. Tuy nhiên, nguồn tin từ CIC thì thiếu các thông tin phi tài chính như những thành tựu về quản lý, năng lực quản trị điều hành của đội ngũ lãnh đạo công ty trong khi ngân hàng đi thẩm định, tiếp xúc thực tế thì thời gian có hạn, không đủ để có thể nhận định, đánh giá được hết khả năng của khách hàng, các mối quan hệ đối tác với ngân hàng không phải lúc nào cũng có thể đáp ứng được các thông tin cần thiết.

Đội ngũ kế toán của DN chưa chuyên nghiệp.

Thực tế là tại nhiều DNVVN, hệ thống thông tin báo cáo tài chính, sổ sách kế toán chưa được thực hiện đầy đủ, thiếu chính xác, minh bạch, công khai, cụ thể như không có bảng lưu chuyển tiền tệ, BCTC ít được qua kiểm toán hoặc nếu có kiểm toán thì thuê những công ty kiểm toán nhỏ, năng lực kiểm toán yếu để kiểm

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 13/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí