phát triển nhà trường theo các quy định của Bộ giáo dục và đào tạo và nhiệm vụ phát triển giáo dục của địa phương. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục. Quản lý cán bộ, giáo viên. [6]
Nhân viên và học sinh. Quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính theo quy định của pháp luật. Phối hợp với gia đình, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực hiện hoạt động giáo dục. Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.1.4. Công tác quản lý hoạt động dạy học của giáo viên tiểu học
Quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường là quá trình cán bộ quản lý xác lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh nhằm đạt mục tiêu đề ra. Trong toàn bộ quá trình quản lý nhà trường thì quản lý hoạt động dạy học của cán bộ quản lý cấp Phòng và cấp trường là hoạt động cơ bản, nó chiếm thời gian và công sức rất lớn, bởi vì nhiệm vụ hàng đầu của quản lý hoạt động dạy học là quản lý có hiệu quả các thành tố cấu trúc của hoạt động dạy học, cần phải tạo điều kiện và tác động cho sự cộng tác tối ưu giữa giáo viên và học sinh nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa chọn nội dung phù hợp kế hoạch, áp dụng hài hòa các phương pháp, tận dụng các phương tiện và điều kiện hiện có, tổ chức linh hoạt các hình thức dạy học, tìm ra phương thức kiểm tra - đánh giá kết quả dạy học đáng tin cậy. Quản lý hoạt động dạy học là quản lý việc chấp hành các quy định (điều lệ, quy chế, nội quy...) về hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh, đảm bảo cho hoạt động đó được tiến hành tự giác, có nề nếp, có chất lượng và hiệu quả cao.
Quản lý hoạt động dạy học là một hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý hoạt động dạy học của cán bộ quản lý cấp Phòng và cấp trường đối với các trường tiểu học
chính là quản lý quá trình sư phạm tương tác giữa giáo viên, học sinh và yếu tố môi trường tác động vào hoạt động dạy học và giáo dục theo chương trình đã được quy định. Cán bộ quản lý cấp Phòng và cấp trường chịu trách nhiệm quản lý toàn diện các mặt hoạt động trong nhà trường, mà trọng tâm là quản lý quá trình giảng dạy – giáo dục, trong đó bao gồm một hệ thống cộng tác như: đảm bảo chương trình, nội dung giảng dạy các môn, cải tiến việc dạy và việc học, cung ứng những điều kiện dạy học. Ở trường tiểu học, giáo viên phải dạy toàn diện các môn học, đòi hỏi cán bộ quản lý cấp Phòng và cấp trường không những là người có phẩm chất đạo đức tốt mà còn phải có năng lực chuyên môn và năng lực quản lý tốt để làm gương cho cán bộ, giáo viên về phẩm chất đạo đức, giúp đỡ giáo viên về chuyên môn, quản lý có hiệu quả các hoạt động của nhà trường. Cán bộ quản lý cấp Phòng và cấp trường quản lý trường tiểu học phải thể hiện hai vai trò: người giáo viên và nhà quản lý. Vì vậy, cán bộ quản lý cấp Phòng và cấp trường cần biết những kĩ năng nhất định của giáo viên và những kĩ năng của nhà quản lý. Ta cần phải nhấn mạnh các kĩ năng của nhà quản lý vì đấy là sự khác biệt của cán bộ quản lý cấp Phòng và cấp trường so với giáo viên.
1.1.5. Yêu cầu đổi mới Giáo dục Tiểu học trong bối cảnh hiện nay
Yêu cầu của đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục là đào tạo được những con người có đủ phẩm chất năng lực cần thiết, đáp ứng cho thị trường lao động của xã hội hiện thời và tương lai. Những con người đó phải có đủ những năng lực để làm việc trong môi trường kinh tế thị trường của một nước có nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải đáp ứng được các thách thức của cuộc sống mới. Xu thế lao động xã hội hiện nay là hợp tác toàn cầu, đa phương, thừa nhận những sự khác biệt, cho nên những con người mới phải tận dụng những cơ hội đó để cùng phát triển, cùng đấu tranh giải quyết những vấn đề liên quan đến cuộc sống, trong đó có cả thảm họa của thiên nhiên, chống lại những hoạt động đi ngược lại sự tiến bộ của nhân loại. Giáo dục tiểu học đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển các
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý công tác chủ nghiệm lớp tại trường tiểu học Đông Ngạc A, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội - 1
- Quản lý công tác chủ nghiệm lớp tại trường tiểu học Đông Ngạc A, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội - 2
- Khái Niệm Quản Lí Công Tác Chủ Nhiệm Của Giáo Viên Tiểu Học
- Phương Pháp Quản Lí Công Tác Chủ Nhiệm Của Giáo Viên Tiểu Học
- Tổ Chức Khảo Sát Thực Trạng Công Tác Chủ Nhiệm Lớp Ở Trường Tiểu Học Đông Ngạc A
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
phẩm chất và năng lực của con người, đặc biệt đây là giai đoạn xây dựng nền móng trí tuệ, tri thức, phẩm chất và năng lực cho học sinh, đối tượng của quá trình đổi mới giáo dục.
Các định hướng chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo về giáo dục tiểu học hiện nay chính là đổi mới phương pháp dạy học, hoạt động dạy học tiểu học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm. Hoạt động dạy học lấy học sinh làm trung tâm là thuật ngữ dùng để miêu tả cách dạy của giáo viên và cách học của học sinh nhằm tạo cơ hội cho học sinh khám phá, tìm tòi các khái niệm và các thông tin mới với sự hỗ trợ, khuyến khích và hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên phải luôn hướng vào học sinh, dựa vào nhu cầu của học sinh trong suốt quá trình dạy học.
Đặc biệt định hướng chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo về giáo dục tiểu học hiện nay còn đi sâu vào việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy học, đưa ra nhiều mô hình quản lý hoạt động dạy học tiểu học để bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên.
Tuy nhiên các mô hình còn rời rạc, chưa hệ thống, chưa phối hợp tạo thành hệ thống các phương pháp quản lý hoạt động dạy học cụ thể để áp dụng đạt hiệu quả trong đổi mới hoạt động dạy học ở tiểu học hiện nay. Các xu hướng chỉ đạo đổi mới hoạt động dạy học tiểu học đã tập trung nghiên cứu đi sâu vào việc chuyển từ hoạt động dạy học lấy kiến thức (lý thuyết) làm trọng tâm 40 sang hoạt động dạy học với mục tiêu hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất học sinh, để từ đó làm cơ sở cho việc đảm bảo chất lượng hoạt động dạy học tiểu học. Quan điểm này trùng khớp với nội dung mà tác giả đang nghiên cứu
Theo thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30/12/2010 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về ban hành Điều lệ trường tiểu học: Mục tiêu dạy học cấp tiểu học nhằm hình thành cho học sinh có những hiểu biết cơ bản và cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người. Thông qua các môn học Tiếng Việt, Toán, Tự nhiên - Xã hội nhằm rèn luyện cho học sinh có các kĩ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán phù hợp cấp tiểu học. Qua môn Thể dục hình thành thói quen rèn luyện thân thể và giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường học tập sinh sống, có hiểu biết
ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật,.... Mục tiêu dạy học cấp tiểu học được xác định theo năng lực học sinh, trong đó chú trọng tới các yếu tố hiểu biết về cuộc sống; cân đối, hài hòa về thể chất và tinh thần; bước đầu thành thạo đọc, viết, tính toán, tin học, tư duy, kĩ năng sống, có kĩ năng nhận biết và giải quyết vấn đề trong cuộc sống hàng ngày; có kĩ năng, thái độ căn bản để chuẩn bị đối diện với những cơ hội và thách thức trong cuộc sống ở thế kỉ XXI; có thái độ tôn trọng văn hóa truyền thống và cuộc sống đa văn hóa; có tình yêu đối với người xung quanh, với đất nước. Trường tiểu học là nơi đầu tiên trẻ tiếp xúc với phương pháp dạy học kiểu nhà trường, vì vậy hoạt động dạy học tiểu học là dạy cho học sinh làm quen với các phương pháp học để chủ động chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Trong quá trình dạy học, giáo viên tiểu học là người giữ vai trò tổ chức, điều khiển hoạt động của học sinh theo phương châm "Thầy tổ chức, trò hoạt động". Đây cũng là nơi đầu tiên dạy cho học sinh cách học, biết hoạt động nhóm, biết cách tự học. [6]
1.2. Quản lí công tác chủ nhiệm của giáo viên tiểu học
1.2.1. Khái niệm quản lý và chức năng quản lý giáo dục
Nguồn gốc phát triển loài người là lao động của cá nhân và lao động chung.
C. Mác đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.“Lao động chung cần có tổ chức và thống nhất nhằm tạo ra sức mạnh để đạt được mục đích chung. Quản lý là một chức năng lao động bắt nguồn từ tính chất lao động của xã hội. Trong quá trình lao động con người buộc phải liên kết lại với nhau, kết hợp lại thành tập thể. Điều đó đòi hỏi phải có sự tổ chức, phải có sự phân công và hợp tác trong lao động, phải có sự quản lý.”[36]
Chính vì vậy, công việc quản lý là một hoạt động xã hội có tổ chức dựa trên sự phân công và hợp tác cụ thể để tiến hành một công việc nhằm đạt được một kết quả như mục tiêu đặt ra. Có thể nói quản lý là một thuộc tính tất yếu gắn liền với tổ
chức xã hội nhưng chỉ khi tổ chức xã hội tiến lên đến một trình độ nhất định thì công việc quản lý mới được tách ra thành chức năng riêng của hoạt động lao động xã hội; “Xã hội càng phát triển về trình độ và quy mô sản xuất, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật công nghệ, thì trình độ quản lý, tổ chức, điều hành và công nghệ quản lý cũng càng được nâng lên và phát triển không ngừng”.
Như vậy“quản lý là một trong những hoạt động vừa khó khăn, phức tạp; vừa là một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển xã hội, suy thoái hay thịnh vượng của một tổ chức, một quốc gia, thậm chí là toàn cầu. Sự phát triển xã hội dựa vào nhiều yếu tố: sức lao động, tri thức, nguồn vốn, tài nguyên, năng lực quản lý. Trong đó năng lực quản lý được xếp hàng đầu.”
“Quản lý là một khái niệm rất rộng bao gồm nhiều dạng nhưng có thể gộp thành 3 dạng chính: Quản lý các quá trình của thế giới vô sinh (nhà xưởng, ruộng đất, tài nguyên, hầm mỏ, thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, sản phẩm...). Quản lý các quá trình diễn ra trong cơ thể sống (cây trồng, vật nuôi). Quản lý các quá trình diễn ra trong xã hội loài người (quản lý xã hội: đảng, nhà nước, đoàn thể quần chúng, kinh tế, các tổ chức...). Quản lý bao gồm các yếu tố sau: Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý và các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp từ chủ thể quản lý. Tác động có thể liên tục nhiều lần. Muốn quản lý thành công, trước tiên cần phải xác định rõ chủ thể, đối tượng và khách thể quản lý. Điều này đòi hỏi phải biết định hướng đúng. Chủ thể quản lý phải thực hành việc tác động và phải biết tác động. Vì thế chủ thể phải hiểu đối tượng và điều khiển đối tượng một cách có hiệu quả. Chủ thể có thể là một người, một nhóm người; còn đối tượng có thể là con người (một hoặc nhiều người), giới vô sinh hoặc giới sinh vật. Có thể hiểu: Quản lý là một quá trình tác động, gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý một cách hợp quy luật nhằm đạt được mục tiêu chung.”[25]
Trong một tổ chức để tất cả mọi người cùng thực hiện một mục tiêu chung thì sẽ đòi hỏi phải có sự sắp xếp về những hoạt động cần thiết như kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ, phối hợp,hướng dẫn,... Những hoạt động đó là hoạt động quản lý. Và người tiến hành tổ chức các hoạt động đó được gọi là người quản lý.
Quản lý theo tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin là hoạt động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với những quy luật khách quan và hoạt động tự giác của con người. Quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu của xã hội. Chủ thể quản lý và khách thể quản lý luôn có tác động qua lại và chịu tác động của môi trường. Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghệ thuật. Vì vậy, người quản lý ngoài những yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất còn phải nhạy cảm, linh hoạt trong công tác lãnh đạo của mình. Từ những quan niệm trên có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có ý thức, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý để lãnh đạo, hướng dẫn, điều khiển đối tượng quản lý thực hiện nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Quản lý giáo dục là một dạng của quản lý xã hội với mục tiêu đưa hệ thống giáo dục là một bộ phận của nó tiến đến mục tiêu đã xác định. Quản lý giáo dục theo nghĩa rộng là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội. Quá trình đó bao gồm các hoạt động giáo dục và có tính giáo dục của bộ máy nhà nước, của các tổ chức xã hội, của hệ thống giáo dục quốc dân. Quản lý giáo dục theo nghĩa h p bao gồm: quản lý các hoạt động GD - ĐT diễn ra trong các đơn vị hành chính (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc) và quản lý các hoạt động GD - ĐT diễn ra trong các cơ sở giáo dục.
Các nhà nghiên cứu về quản lý giáo dục đã đưa ra nhiều quan niệm về quản lý giáo dục như sau:
Theo các nhà khoa học nước ngoài: M.I. Kôndakốp: “ Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống… nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm trí của trẻ em …” [33].
Bush T: “ Quản lý giáo dục, một cách khái quát, là sự tác động có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý giáo dục tới các đối tượng quản lý giáo dục theo cách sử dụng các nguồn lực càng hiệu quả càng tốt nhằm đạt mục tiêu đề ra” [44].
Khuđôminski: “Quản lý giáo dục là tác động hệ thống có kế hoạch, có ý
thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục cộng sản xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ”[37].
Dựa trên khái niệm khoa học và tổng kết thực tiễn giáo dục Việt Nam, nhiều tác giả trong nước đã khẳng định: Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành tiến tới mục tiêu ĐT theo nguyên lý GD” [4].
Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là quản lý hoạt động dạy và học nhằm đưa nhà trường từ trạng thái này sang trạng thái khác và dần đạt tới mục tiêu giáo dục đã xác định” [12].
Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường” [22].
Nguyễn Lộc: “Quản lý giáo dục là quá trình tác động có kế hoạch, có tổ chức của các cơ quan quản lý giáo dục các cấp tới các thành tố của quá trình dạy học – giáo dục nhằm làm cho hệ giáo dục vận hành có hiệu quả và đạt tới mục tiêu giáo dục nhà nước đề ra” [30].
Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [36].
Bùi Văn Quân: “Quản lý giáo dục là một dạng của quản lý xã hội trong đó diễn ra quá trình tiến hành những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động để gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lý được thực hiện trong lĩnh vực giáo dục, nhằm thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự ổn định và phát triển của giáo dục trong việc đáp ứng các yêu cầu mà xã hội đặt ra đối với giáo dục” [37].
Các quan điểm trên, tuy có những cách hiểu khác nhau, nhưng đã có sự thống nhất ở những nội dung cơ bản về quản lý giáo dục là: Quản lý giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý giáo dục tới đối tượng quản lý giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục mà xã hội yêu cầu. Quản lý giáo dục là một hệ thống những tác động có mục đích, kế hoạch, hợp quy luật để vận hành cả một hệ thống hoạt động theo đúng yêu cầu đặt ra cho giáo dục. Quản lý giáo dục được thể hiện rõ nhất ở hoạt động giáo dục trong nhà trường. Với sự thống nhất trên, có thể hiểu: Quản lý giáo dục là quá trình tác động có định hướng của người quản lý giáo dục trong việc vận dụng những nguyên lý, phương pháp chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục nhằm đạt được mục tiêu mà giáo dục đề ra.Quản lý giáo dục không những là nhân tố quyết định đến sự phát triển của giáo dục mà còn là yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng giáo dục và đào tạo.
Như vậy, quản lý giáo dục chính là quá trình tác động có định hướng của nhà quản lý trong việc vận dụng nguyên lý, phương pháp chung nhất của kế hoạch nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Những tác động này có tính khoa học đến nhà trường làm cho nhà trường tổ chức một cách khoa học, có kế hoạch trong việc dạy và học theo mục tiêu đào tạo chung.
Quản lý nhà trường có thể chia làm hai cấp độ là cấp vĩ mô và cấp vi mô. Quản lý giáo dục cấp vĩ mô là quản lý cả hệ thống giáo dục bao gồm tất cả các thành tố của hệ thống, trong đó quản lý nhà trường là trọng tâm. Quản lý nhà trường là quản lý cấp vi mô. Dựa trên khái niệm khoa học và tổng kết thực tiễn giáo dục Việt Nam, khi nói về quản lý nhà trường cũng có nhiều tác giả khẳng định: Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường là tổ chức hoạt động dạy học. Có tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam XHCN mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước" [13].
Trần Kiểm: Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, đối với thế hệ trẻ và từng học sinh" [23].