Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Châu Âu



tâm lý lo sợ tình trạng kinh tế bùng nổ kiểu bong bóng. Do vậy, PBOC vừa tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, vừa kiểm soát các ngân hàng và hoạt động cho vay quá mức đối với khu vực bất động sản. Theo các quy định mới có hiệu lực từ ngày 1/3/2004, Ủy ban giám sát Ngân hàng Trung Quốc (CBRC) yêu cầu tất cả các NHTM nước này đều phải đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn 8% kể từ ngày 01/01/2007, trong đó khoản tiền cho khu vực bất động sản vay chưa trả sẽ không được phép chiếm hơn 30% tổng dư nợ vay chưa trả của 1 ngân hàng. Các biện pháp này nhằm góp phần hỗ trợ giảm tỷ lệ lạm phát xuống còn 3 - 4% trong năm 2004 của Chính phủ Trung Quốc.

Thách thức lớn nhất hiện nay đối với các NHTM Trung Quốc là khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trên lĩnh vực CVTD như: HSBC, Citibank, Standard Chartered… đang nổi lên là những đối thủ cạnh tranh rất mạnh. Các ngân hàng trong nước của Trung Quốc có thể để lĩnh vực CVTD rơi vào tay các đối thủ cạnh trạnh nước ngoài nếu họ không lập tức củng cố lĩnh vực dịch vụ này. Tăng trưởng kinh tế mạnh của Trung Quốc trong những năm qua đã làm tăng nhu cầu về CVTD nhưng các dịch vụ liên quan của các ngân hàng trong nước vẫn bị bỏ trễ phía sau. Trong khi đó, những ngân hàng nước ngoài vừa hiện đại lại nhiều kinh nghiệm, chẳng hạn như Citibank đã phát hành 100 triệu thẻ tín dụng trên khắp thế giới và có những hệ thống đánh giá độ tín nhiệm tín dụng của khách hàng đã được kiểm nghiệm. Với kinh nghiệm dày dạn và hệ thống giao dịch hiện đại, các ngân hàng nước ngoài có ưu thế mạnh hơn hẳn với các đối tác Trung Quốc trong lĩnh vực kinh doanh thẻ tín dụng, mặc dù số lượng các đại lý của họ ở Trung Quốc còn nhỏ. Nếu các ngân hàng này đưa ra những loại thẻ đáp ứng được nhu cầu của khách hàng giàu có, đưa ra các hạn mực tín dụng cao hơn cho sinh viên thì sẽ vượt xa ngân hàng Trung Quốc về dư nợ tín dụng. Bên cạnh thẻ tín dụng, họ còn dự kiến tiến hành các hoạt động thuộc lĩnh vực khác của tín dụng tiêu dùng như triển khai các khoản cho vay mua nhà trả chậm. Các dịch vụ này có rất nhiều triển vọng do lượng dân số khổng lồ của Trung Quốc. Theo đánh giá của các nhà phân tích, các ngân hàng lớn của nước ngoài sẽ không xây dựng các chi nhánh trên toàn quốc và cũng không nhằm vào thị trường cho vay mua nhà trả chậm đối với các khách hàng trung lưu. Khi tiếp cận vào thị trường khách hàng bán lẻ, các ngân hàng nước ngoài sẽ lôi kéo các khách hàng giàu có với các dịch vụ có mức phí cao nhưng lại đáp ứng được nhu cầu ở mức cao hơn, chẳng hạn như các sản phẩm đầu tư, quản lý quỹ.



Theo các nhà tư vấn, cách tốt nhất là lĩnh vực tiêu dùng cần phải được tách riêng thành những bộ phận có thể tự kinh doanh, tự quản lý và hạch toán lỗ lãi một cách độc lập với các hoạt động kinh doanh ngân hàng khác [9].

1.2.1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại Châu Âu

Tại Châu Âu, CVTD ra đời muộn hơn các loại hình cho vay khác. Nó đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một lớn của người dân tại các quốc gia phát triển. Cho đến nay, CVTD đã trở thành một hình thức cho vay phổ biến tại châu Âu. Cùng với các loại cho vay khác, CVTD làm hoàn thiện, làm phong phú môi trường cho vay, hướng tới “bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng”:

Ra đời ngày 22/12/1986, Nghị định 87/102/CEF của cộng đồng chung châu Âu khởi thảo bước đầu tiên có tính thống nhất về các điều luật, các quy tắc và quản lý hành chính CVTD trong phạm vi toàn bộ cộng đồng. Nghị định này liên tục được sửa đổi trong các giai đoạn tiếp theo.Tất cả các cá nhân có đủ năng lực hành vi đều có khả năng được cấp tín dụng tiêu dùng, với điều kiện: khoản cho vay đó không sử dụng để phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp, nó chỉ mang tính chất thuần túy là tiêu dùng cá nhân. Tuy thế, để phòng ngừa rủi ro, các NHTM vẫn có những giới hạn về đối tượng nhận cho vay ví dụ như giới hạn về độ tuổi. Các thông tin trong CVTD bao gồm: Ký kết hợp đồng, thanh toán lãi và gốc, rủi ro và bảo đảm cho vay, quản lý hành chính [9].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.

1.2.1.3. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại của Mỹ

Theo những nghiên cứu mới nhất thì CVTD là một trong những khoản mục tài sản mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho các ngân hàng Mỹ. Ví dụ như ngân hàng Citibank của Mỹ trong những năm 2000, thu nhập từ các khoản CVTD chiếm tới 14%. Dư nợ CVTD ở các ngân hàng này cũng chiếm tỷ lệ rất cao, có ngân hàng lên tới 60% dư nợ. Sở dĩ họ có thể chấp nhận được rủi ro và chi phí cao khi tập trung CVTD là do họ quản lý được các khoảng CVTD một cách chặt chẽ và linh hoạt.

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ - 7

Mỹ là một quốc gia có công nghệ phát triển vào bậc nhất thế giới, do đó có rất nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng lớn đều sử dụng hệ thống máy móc tự động để xét duyệt các yêu cầu xin vay nhằm giảm bớt thời gian chờ đợi cho khách hàng. Khi giải quyết cho vay, các ngân hàng Mỹ thường xem xét đến bốn vấn đề chính của khách hàng: mức thu nhập, số dư các tài khoản tiền gửi, sự ổn định về việc làm và nơi cư trú, hệ số đảo nợ. Tuy nhiên để đánh giá được chất lượng tín



dụng thì các ngân hàng đưa ra một hệ thống tính điểm trong đó bao gồm rất nhiều các tiêu thức và ứng với nó là các mức điểm khác nhau. Nếu khách hàng không có hồ sơ tín dụng hoặc có chất lượng tín dụng thấp thì ngân hàng yêu cầu phải có người đứng ra bảo lãnh về việc hoàn trả khoản vay. Giống như các nước khác, ngân hàng Mỹ cũng gặp phải những thách thức trong CVTD, đó là việc đánh giá các khoản CVTD thật không đơn giản, nhất là những vấn đề như tư cách khách hàng vay hay các thông tin cá nhân...

Thực tế đã chứng minh rằng, rủi ro không được thanh toán đối với các khoản CVTD lớn gấp nhiều lần so với các khoản cho vay sản xuất kinh doanh khác. Tuy nhiên trong trường hợp không được thanh toán, các ngân hàng có thể phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn. Bên cạnh đó lý do quan trọng nhất để hấp dẫn các ngân hàng chấp nhận rủi ro cao để CVTD là lợi nhuận mang lại từ các khoản vay này là rất lớn Qua đó cho thấy tình hình cho vay tiêu dùng ở các ngân Mỹ họ tập trung vào xây dựng một hệ thống thông tin của từng khách hàng như thu nhập, nghề nghiệp, học vấn, nơi cư trú; có khả năng thanh toán nợ hay không, nghề nghiệp có ổn định hay không [9].

1.2.2. Kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Cho vay tiêu dùng đang được các NHTM trong nước nới lỏng và tiếp thị khá mạnh với: hạn mức vay cao, thời gian cho vay dài, lãi suất ưu đãi, giải quyết vay siêu tốc 24 phút… Giờ đây việc mua nhà, xây dựng sửa chữa nhà ở, mua ô tô và tài sản có giá, đi du học... đều trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.

Từ con số cho vay tín chấp 20 triệu không cần thế chấp, đến năm 2009 hạn mức đó đã được các NHTM điều chỉnh lên đến vài trăm triệu đồng/người, mức lương tối thiểu để xét cho vay cũng hạ xuống còn 2 triệu đồng/tháng và thời gian xét duyệt cho vay giảm xuống chỉ còn 1, 2 ngày. Dẫn đầu thị trường trong các hạn mức tín dụng CVTD phải kể đến con số 1 tỷ đồng của SeABank, hay 500 triệu đồng của Ngân hàng TMCP Liên Việt (LienVietBank) và Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu (Eximbank). Còn lại, hạn mức vay tín chấp tối đa của các NHTM dao động từ 200 - 500 triệu đồng, tùy từng ngân hàng: như Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB), Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB), Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank)…, với thủ tục cho vay cũng được tạo điều kiện nhanh chóng, tiện lợi và dễ dàng. Nhanh nhất vẫn là Ngân hàng TMCP Đông Á (DongABank) với sản phẩm



"Vay 24 phút" đáp ứng nhu cầu cần vốn cấp tốc với lãi suất cho vay 1,07%/tháng. Tiếp đó, EximBank thực hiện cho vay cầm cố sổ tiết kiệm của chính ngân hàng này tối đa trong vòng 1 giờ, cấp hạn mức tiêu dùng đảm bảo bằng bất động sản tối đa 2 ngày… Ngân hàng TMCP Tiền Phong (TienPhongBank) cũng cho vay thấu chi cầm cố sổ tiết kiệm trong khoảng 60 phút, vay thế chấp chứng khoán niêm yết tối đa là 4 giờ, vay giấy tờ có giá khoảng 30 phút… Thậm chí, ABBank còn “mời chào” khách hàng vay bằng cách tặng kèm bảo hiểm, tặng vàng... Những hoạt động này của các ngân hàng đã thu hút lượng khách hàng đến tìm hiểu và vay vốn phục vụ cho mục đích tiêu dùng tăng lên nhanh chóng, đối tượng khách hàng vay cũng đa dạng hơn [5].

Tuy nhiên trong thực tế thì số lượng các khách hàng đến tìm hiểu và được cho vay không tương đương nhau, bởi lẽ các ngân hàng đều đưa ra các hạn mức khá cao, lãi suất thỏa thuận và ở chế độ điều chỉnh…. nên đồng vốn vay vẫn nằm xa tầm tay của người muốn vay.

Về hạn chế tính rủi ro trong CVTD, các ngân hàng đều quy định phần lớn các hợp đồng cho vay là có tài sản thế chấp đảm bảo nên tính rủi ro không đáng ngại. Riêng vay tín chấp, tỉ lệ cho vay chỉ dừng lại ở mức từ 5 - 10% trên tổng dư nợ của khu vực khách hàng cá nhân.

Liên quan đến vấn đề các ngân hàng đẩy mạnh mảng tín dụng tiêu dùng, một số chuyên gia tài chính nhận định: từ trước đến nay, mặc dù đối tượng khách hàng cá nhân sẵn sàng chấp nhận trả mức lãi suất cao hơn lãi suất mà các doanh nghiệp vay của ngân hàng, nhưng vẫn khó tiếp cận được nguồn vốn. Trong khi đó, thị phần CVTD ở Việt Nam được các tổ chức tài chính nước ngoài đánh giá rất tiềm năng, các công ty tài chính nước ngoài, chẳng hạn như Mitsubishi, đang rất muốn vào nhưng chưa được. Rõ ràng các ngân hàng trong nước chuyển mạnh sang phân khúc CVTD trong lúc này, không chỉ là xoay xở vì khó khăn, mà họ nhận ra đây chính là thị phần quan trọng [5].

Trên thực tế hoạt động đẩy mạnh mảng tín dụng tiêu dùng một số ngân hàng giải ngân được một số tiền khá lớn so với kế hoạch như LienViet Bank, DongA Bank… Tuy nhiên dư luận cho rằng không phải ai cũng có thể tiếp cận được khoản vay tiêu dùng. Lãnh đạo một số ngân hàng cũng thừa nhận, thực chất hồ sơ xin vay thì nhiều nhưng không phải tất cả đều được giải ngân nếu không



chứng minh được nguồn trả nợ. Các ngân hàng cho vay nhưng vẫn thấp thỏm lo lắng cho công tác thu hồi nợ [5].

Việc chưa có những trung tâm thông tin tín dụng cá nhân cũng là một trở ngại khiến cho các ngân hàng không thể đẩy mạnh mảng tín dụng tiêu dùng. Một số ngân hàng đòi hỏi người vay phải có giấy xác nhận của cơ quan… như là một đảm bảo về khả năng trả nợ. Thế nhưng các ngân hàng lại đối mặt với một thực tế là hiện nay trên thị trường có những công ty sinh ra chỉ để làm công việc “xác nhận”. Do vậy nhiều ngân hàng dù đẩy mạnh CVTD nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro khó lường.

Nếu nhìn cái gì cũng thấy rủi ro thì ngân hàng rất khó hoạt động, bất kì sản phẩm tín dụng nào cũng có rủi ro, CVTD có mức độ rủi ro còn cao hơn, chẳng hạn như hồ sơ giả... Vấn đề là ngân hàng phải chấp nhận rủi ro ở một mức độ nào đó. Do vậy, lãi suất CVTD luôn cao hơn lãi suất cho vay sản suất kinh doanh thông thường. Tùy từng đối tượng mà có hạn mức cụ thể, đối tượng nào ngân hàng kiểm soát được sẽ cho vay nhiều hơn và ngược lại.

Đã tham gia vào lĩnh vực CVTD, ngân hàng nào cũng có biện pháp hạn chế rủi ro. DongA Bank có bộ phận giám sát, kiểm soát, hậu kiểm để loại ra những hồ sơ nghi ngờ. Đồng thời ngân hàng cũng tổ chức các bộ phận đi xử lý công nợ dây dưa, kéo dài. Eximbank cũng ràng buộc một số điều kiện như người vay phải có việc làm và thu nhập ổn định, vay theo nhóm, đồng thời đơn vị nơi cá nhân làm việc cam kết giúp ngân hàng thu nợ thông qua việc chi trả tiền lương. Ngân hàng cũng kết hợp với ban lãnh đạo, công đoàn các doanh nghiệp, để có thông tin qua lại về hoạt động của người vay, qua đó quản lý chặt chẽ tình hình thanh toán nợ của khách hàng.

Dù đã có những ràng buộc như vậy, nhưng rủi ro vẫn là điều khó tránh. Số khách hàng vay tiêu dùng rất lớn, có khi lên đến cả chục ngàn người, không ít trường hợp người vay không trả được nợ vì những lý do bất khả kháng như gặp tai nạn hoặc nghỉ việc. Hiện nay, để tránh những rủi ro bất khả kháng như cá nhân vay tiền ngân hàng bị tai nạn, tử vong, thất nghiệp… Eximbank đang tính toán việc hợp tác với các công ty bảo hiểm nhằm bảo hiểm các khoản cho vay của ngân hàng.

Kinh nghiệm của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy:

(i) Chức năng hoạt động của Uỷ ban quản lý rủi ro giúp cho Hội đồng quản trị và Ban điều hành cân nhắc rủi ro trước khi đưa ra những quyết định mang tính chiến lược, đồng thời đưa ra đươc những chiến lược, kế hoạch cụ thể để ứng phó với rủi ro lãi suất. (ii) Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng đã mang tính linh hoạt. (iii)



Các mức lãi suất do Ngân hàng đề ra vừa mang tính định hướng để các chi nhánh tự quyết định mức lãi suất huy động vốn và cho vay phù hợp với mức độ cạnh tranh trên địa bàn hoạt động, đối tượng khách hàng của chi nhánh; đồng thời cân đối được nguồn vốn, sử dụng vốn trong toàn hệ thống. (iv) Quy trình quản trị rủi ro lãi suất đã được Ngân hàng thực hiện đồng bộ với các quy trình quản trị rủi ro khác: quản trị rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro lãi suất, quản trị rủi ro thanh khoản, quản trị rủi ro tỷ giá, quản trị rủi ro tác nghiệp. (v) Ngân hàng đã thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ: các sản phẩm huy động vốn, cho vay, gia tăng tỷ trọng các nguồn thu từ dịch vụ để giảm thiểu tác động của rủi ro lãi suất tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. (vi) Ngân hàng đã thực hiện cân đối, phù hợp về mặt thời gian giữa tài sản có và tài sản nợ.

Một số chủ trương, chính sách của Ngân hàng Nhà nước đối với việc quản trị rủi ro ở các ngân hàng Việt Nam: (i) Về quản trị rủi ro tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang tím kiếm các mô hình mới, các mô hình xếp hạng liên tục có thể áp dụng qua các chu kỳ kinh tế. Thêm vào đó là xây dựng một hệ thống đánh giá, phân tích xếp hạng tín dụng doanh nghiệp hỗ trợ các tổ chức tín dụng xây dựng chính sách tín dụng hiệu quả và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng và đề xuất những thay đổi phù hợp cho những phương pháp đang được áp dụng. Thông tư 02/2013/TT-NHNN mới ban hành là quy định mới của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để quả lý hoạt động tín dụng ngân hàng. Thông tư yêu cầu, cùng với những quy định khác, các ngân hàng phải xây dựng một phương pháp xếp hạng nội bộ cho mỗi loại đơn vị xin vay vốn, phương pháp phải được Hội đồng quản trị chấp thuận, được tích hợp với các hệ thống ngân hàng với thông báo cách tiếp cận lên ngân hàng Nhà nước. Đây là một bước tiến đúng hướng để có được quản trị rủi ro tín dụng đáng tin cậy. (ii) Ngày 18/10/2013, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký hợp đồng triển khai „Hệ thống quản lý dữ liệu trung tâm thông tin tín dụng - CIC” với liên doanh Công ty Hệ thống thông tin FPT (FPT IS) và DP Information Network (DP). Đây là một phần trong dự án hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hóa ngân hàng (FSMIMS) của Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao năng lực quản lý, phù hợp với những đòi hỏi mới của ngành tài chính - ngân hàng. Hệ thống quản lý dữ liệu CIC có khả năng tự động nhận và kiểm tra sự phù hợp của dữ liệu, khả năng mở rộng cơ sở dữ liệu và kho dữ liệu, ứng dụng báo cáo theo yêu cầu của ngân


hàng Nhà nước, tăng cường quản lý rủi ro tín dụng, hỗ trợ đăng ký tín dụng và báo cáo tín dụng của đối tượng vay, quản lý người dùng [5].

Có thể khẳng định, môi trường ngành ngân hàng Việt Nam 2013 vẫn còn nhiều thách thức. Để ứng phó nhanh nhạy với những biến động của thị trường tài chính - tiền tệ và cạnh tranh với các ngân hàng ngoại thì các ngân hàng trong nước cần nhanh chóng nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị rủi ro của mình.

1.2.3. Một số chủ trương, chính sách của Ngân hàng Nhà nước đối với việc cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Về định hướng điều hành chính sách tiền tệ những tháng cuối năm 2014, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Ngân hàng Nhà nước quyết định giữ ổn định các mức lãi suất điều hành (gồm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng); từ ngày 29/10/2014, điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND của các tổ chức, cá nhân tại các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế từ mức 8%/năm xuống còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD của cá nhân tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 1%/năm xuống 0,75%/năm. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước theo dõi sát thị trường, điều hành đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, tỷ giá. Về tăng trưởng tín dụng, Ngân hàng Nhà nước chủ trương phấn đấu đạt được mục tiêu tín dụng cả năm 2014 là 12-14%, góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển, tiếp tục triển khai các chương trình gắn kết tín dụng ngân hàng với chính sách ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; Đẩy mạnh triển khai việc cơ cấu lại hệ thống các TCTD, xử lý nợ xấu nhằm lành mạnh hóa hoạt động của các TCTD, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.[15]

1.2.4. Bài học kinh nghiệm đối với Vietinbank - Chi nhánh Phú Thọ



Qua nghiên cứu thực tiễn CVTD tại một số NHTM trong nước, đặc biệt là trên thế thế giới như Trung Quốc, Châu Âu và Mỹ, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ, cụ thể:

(i) Thị trường CVTD đang là thị trường tốt để các NHTM nhắm tới. Do vậy mở rộng và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng là một hướng đi đúng đã được thực tiễn chứng minh tại các quốc gia phát triển trên thế giới. Đây là vấn đề cần được xác định cho đúng trong tư tưởng chỉ đạo, và thực tiễn kinh doanh đối với Vietinbank nói chung và Vietinbank - Chi nhánh Phú Thọ nói riêng.

(ii) Hầu hết các ngân hàng hiện nay nay đều thực hiện chính sách đa dạng hoá CVTD trên cơ sở áp dụng công nghệ hiện đại để đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao của khách hàng; coi nhu cầu thực tế của khách hàng làm trọng tâm của hoàn thiện và phát triển hoạt động CVTD. Qua đó, cung ứng các danh mục sản phẩm CVTD phù hợp với đặc điểm của từng nhóm khách hàng tiêu dùng. Đây là chìa khóa, bài học kinh nghiệm để đạt những thành công trong phát triển CVTD của các NHTM.

(iii) Để CVTD đạt được hiệu quả mong muốn, một trong những yếu tố mang tính quyết định là phải xây dựng được thương hiệu của ngân hàng. Một thương hiệu tốt đồng nghĩa với uy tín, năng lực và sức hút của ngân hàng đối với khách hàng và đối tác sẽ ngày càng được củng cố và nâng cao. Để xây dựng xây dựng thương hiệu phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó đặc biệt là năng lực hoạt động và chất lượng dịch vụ CVTD.

(iv) Quan tâm và làm tốt việc đầu tư xây dựng một hệ thống thu thập xử lý thông tin chính xác kịp thời của từng đối tượng khách hàng vì nó là nền tảng cho mọi quyết định về cung ứng dịch vụ và quan hệ của ngân hàng với khách hàng, đặc biệt là khi ngân hàng muốn cấp tín dụng cho họ. Giúp cho các nhà quản trị luôn cập nhật, kết nối được thông tin từ đó có những quyết định chính xác; giúp cho khách hàng dễ dàng tiếp cận các thông tin cần thiết để tạo ra sự minh bạch, tiện lợi trong khi sử dụng dịch vụ.

(v) Đầu tư đúng, đủ cho công nghệ ngân hàng. Xác định công nghệ hiện đại là điều kiện để nâng cao chất lượng CVTD trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

(vi) Thực hiện đa dạng hóa các liên kết theo chuỗi tỏng CVTD, đặc biệt chú ý liên kết giữa ngân hàng với các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn trong việc bán chéo sản phẩm, nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Người tiêu dùng có thể vay trực tiếp từ ngân hàng liên kết với công ty khi mua hàng, đồng

Ngày đăng: 03/07/2024