Ảnh Hưởng Bởi Các Nhân Tố Khách Quan Thứ Nhất, Nhân Tố Khách Hàng



một mặt nó là cơ sở để tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng so với ngân hàng khác, giúp cho ngân hàng củng cố, mở rộng thị trường, tăng thị phần của mình; Mặt khác, nó hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Do đó, việc đa dạng hóa các sản phẩm ngân hàng nói chung và các sản phẩm CVTD nói riêng là vô cùng cần thiết. (ví dụ cho vay mua ôtô bảo đảm bằng bất động sản, cho vay mua ôtô bảo đảm bằng chính chiếc xe định mua, cho vay mua ôtô kết hợp với bảo hiểm...)

Thứ năm, quy trình cấp tín dụng: Là tổng hợp các nguyên tắc, các quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng, gồm các bước cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng. Đây là một trong các nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng CVTD. Việc xây dựng một quy trình tín dụng hoàn thiện và hiệu quả có ý nghĩa rất lớn trong công tác ngăn ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra giúp, đồng thời nó còn gây được cảm tình với khách hàng, nhờ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn.

Thứ sáu, thông tin tín dụng và thẩm định khách hàng: Có thể nói, hoạt động chính của ngân hàng là đi vay và cho vay. Trong đó, hoạt động cho vay phụ thuộc vào lòng tin của ngân hàng đối với khách hàng. Do vậy, để hoạt động cho vay nói chung và CVTD nói riêng được mở rộng với chất lượng cao, hiệu quả lớn thì ngân hàng phải nắm bắt được thông tin một cách kịp thời và chính xác về khách hàng vay vốn. Gồm có:

+ Các thông tin tài chính của khách hàng: Khả năng về tài chính của khách hàng, thu nhập hiện tại, khả năng trả nợ và đảm bảo tín dụng...

+ Các thông tin phi tài chính của khách hàng: Tư cách, uy tín, các mối quan hệ xã hội...

+ Các thông tin gián tiếp: Tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của các NHTM khác.

Do vậy, để hoạt động cho vay nói chung và CVTD nói riêng được mở rộng với chất lượng cao, hiệu quả lớn thì ngân hàng phải nắm bắt được thông tin một cách kịp thời, chính xác và đầy đủ về khách hàng vay vốn. Và cũng vì mọi thông tin chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian xác định cho nên nếu ngân hàng không nắm bắt được thông tin kịp thời sẽ không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho khách hàng, hạn chế việc mở rộng CVTD.

Đối với quá trình thẩm định khách hàng thì cũng rất quan trọng, nó là hoạt động chính đối với việc ra quyết định có cho khách hàng vay hay không, nhưng chính

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.



Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ - 6

nó cũng là rào cản việc khách hàng đến được với ngân hàng nếu nó quá phức tạp và rườm rà. Việc thẩm định rườm rà sẽ làm người đi vay nản lòng vì quá trình này sẽ làm họ mất nhiều thời gian và công sức. Để hạn chế được điều này thì việc thẩm định phải dựa trên cơ sở khoa học hợp lý và song song với nó thì việc thực hiện phải nghiêm chỉnh, nó là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định và chất lượng tín dụng.

Thứ bảy, chất lượng cán bộ và cơ sở vật chất thiết bị: Có thể khẳng định rằng, việc mở rộng CVTD có thành công hay không phụ thuộc nhiều vào trình độ cán bộ, nhân viên và cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng.

Chất lượng cán bộ tín dụng thể hiện qua trình độ nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, cũng như khả năng giao tiếp của họ. Nếu cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn giỏi mà không có đạo đức nghề nghiệp thì lợi ích của ngân hàng sẽ bị tổn hại nhiều hơn là ích lợi mà họ mang lại. Nhưng bên cạnh đó, cán bộ tín dụng nhất thiết cần phải có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết sâu, như vậy thì việc thẩm định khách hàng mới chính xác, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Do khách hàng là người tiếp xúc trực tiếp với cán bộ tín dụng cho nên dưới con mắt họ thì cán bộ tín dụng sẽ chính là hình ảnh của ngân hàng. Sự thân thiện và cởi mở đúng mực cùng với sự an tâm về trình độ nghiệp vụ của các cán bộ và cảm giác an toàn khi giao dịch với ngân hàng sẽ là điều kiện để giữ chân khách hàng lại với ngân hàng.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng ảnh hưởng lớn đến việc thu hút khách hàng, việc ngân hàng trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, thiết bị tiên tiến, phù hợp với phạm vi và qui mô hoạt động để phục vụ chính xác, nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của khách hàng thì sẽ giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh và thực hiện việc mở rộng các hoạt động của ngân hàng, trong đó có hoạt động CVTD.

1.1.4.2. Ảnh hưởng bởi các nhân tố khách quan Thứ nhất, nhân tố khách hàng

Mục đích CVTD là đáp ứng tốt nhất nhu cầu tiêu dùng của khách hàng do đó các yếu tố thuộc về khách hàng như khả năng tài chính, tài sản bảo đảm, phẩm chất đạo đức, xu hướng tiêu dùng có những tác động đáng kể tới chất lượng CVTD.

Nhu cầu của người đi vay: Khách hàng vay tiêu dùng của ngân hàng là các cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu rất đa dạng. Đời sống con người càng nâng cao thì các nhu cầu về hàng hoá cao cấp càng lớn. Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn phát triển sẽ xuất hiện những nhu cầu nổi bật cần được tài trợ. Vấn đề là phải phát hiện được



những nhu cầu đó nhanh nhất để đáp ứng kịp thời vì những người đi đầu sẽ có ưu thế trong việc thu hút khách hàng. Sản phẩm CVTD của NHTM là sản phẩm mang tính dịch vụ nên nhu cầu của khách hàng là yếu tố quyết định hình thức CVTD của ngân hàng. Nhu cầu của khách hàng là căn cứ để xây dựng chiến lược phát triển các sản phẩm CVTD của ngân hàng.

Mức thu nhập của người tiêu dùng có vị trí rất quan trọng đối với nhu cầu vay tiêu dùng của họ. Người ta chỉ có nhu cầu vay tiền ngân hàng để phục vụ cho chi tiêu khi mà thu nhập dự kiến trong tương lai của họ có khả năng thanh toán khoản nợ đó. Nói cách khác, triển vọng về thu nhập sẽ là một trong những cơ sở phát sinh nhu cầu vay tiêu dùng. Đối với những người cho vay, vấn đề thu nhập của khách hàng vay sẽ có ảnh hưởng quyết định tới khả năng trả nợ của khách hàng. Do vậy, triển vọng về thu nhập là cơ sở giúp cho người vay nhận được khoản vay mà mình mong đợi.

Giả thuyết về thu nhập thường xuyên của Friedman nêu rõ tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập thường xuyên. Trong khi đó, giả thuyết về thu nhập theo chu kỳ của Modigliani và Brumberg lại cho rằng các thành viên vay vốn để tiết kiệm và duy trì mức chi tiêu trong suốt cuộc đời, sau đó anh ta trung niên và về già lại có xu hướng tiêu dùng số tiền tiết kiệm được. Mở rộng ý tưởng này, chúng ta thấy các hộ gia đình trẻ có nhiều con cái sẽ tiêu dùng nhiều hơn so với thu nhập, vì vậy, nhu cầu vay vốn tiêu dùng cao hơn. Trong khi đó, các hộ gia đình trung niên với nhiều thành viên ở ngoài độ tuổi lao động sẽ vay vốn ít hơn. Các hộ gia đình với nhiều người về hưu cũng sẽ vay ít hơn bởi vì họ có xu hướng sử dụng tiền tiết kiệm để tiêu dùng thay vì đi vay [4].

Ngoài nhu cầu tối đa hoá lợi ích, các cá nhân và hộ gia đình có cách thức ứng xử để tối đa hoá tài sản của họ hoặc ít nhất cũng ổn định tài sản. Các cá nhân và hộ gia đình sẽ có quyết định đầu tư khi so sánh lợi nhuận dự kiến và chi phí của dự án đầu tư. Để tài trợ cho một dự án đầu tư, các hộ gia đình có hai phương án: tự tài trợ hoặc là đi vay. Nếu nguồn lực hiện tại của hộ gia đình nhỏ hơn số tiền cần đầu tư thì hộ gia đình sẽ đi vay để chớp cơ hội đầu tư với hy vọng thu nhập trong tương lai sẽ đủ trang trải chi phí vay vốn. Vì thế, vay vốn là một cách thức để san bằng khoảng cách giữa số tiền tiết kiệm được và nhu cầu đầu tư. Nói cách khác, vay vốn giúp hộ gia đình có nhiều cơ hội đầu tư hơn.



Hơn nữa cá nhân và hộ gia đình thường rất ưa thích tiêu dùng hàng hoá lâu bền, nhà cửa. Nếu các cá nhân và hộ gia đình nghĩ rằng đầu tư hàng hoá lâu bền và nhà cửa sẽ tiết kiệm hơn so với việc đi thuê thì họ sẽ chọn cách đầu tư thay vì đi thuê. Tuy nhiên, dù các cá nhân, hộ gia đình ưa thích tiêu dùng hiện tại hơn tương lai nhưng nguồn lực hiện tại của các hộ gia đình không cho phép các hộ gia đình có cơ hội tiêu dùng hàng hoá lâu bền và nhà cửa. Khi đó, vay vốn là cách thức cho phép các cá nhân và hộ gia đình có thể thoả mãn các nhu cầu mua sắm hàng hoá lâu bền và nhà cửa, không bị bó buộc vào nguồn lực hạn chế hiện tại. Nói cách khác, nhu cầu vay vốn có quan hệ chặt chẽ với nhu cầu tiêu dùng hàng hoá lâu bền và nhà cửa của các cá nhân và hộ gia đình.

- Trình độ học vấn, văn hoá: Trình độ học vấn, văn hoá cũng có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động CVTD. Những ảnh hưởng đó thể hiện như sau:

Những người có trình độ và thu nhập ổn định thì có xu hướng xem việc vay mượn là công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp. Ngoài ra, những người có trình độ học vấn cao thì có nhiều cơ hội hơn trong việc tìm kiếm việc làm có thu nhập cao.

Trình độ văn hoá cũng có những ảnh hưởng nhất định tới đặc điểm đạo đức của người vay. Người có trình độ sẽ hiểu và ý thức được quyền lợi, nghĩa vụ của mình khi vay tiền từ các tổ chức tài chính. Từ đó, ý thức trả nợ được nâng lên, những rủi ro trong hoạt động cho vay sẽ được hạn chế và cuối cùng là khả năng ngân hàng có được những khoản vay có chất lượng tốt sẽ tăng lên.

- Đặc điểm của các cá nhân, hộ gia đình thành thị và nông thôn: Nhìn chung, lý do vay vốn của hộ gia đình thành thị và nông thôn tương đối giống nhau. Tuy nhiên, động cơ vay vốn của các hộ gia đình thành thị lại khác so với các hộ gia đình nông thôn. Các hộ gia đình có động cơ vay vốn khác nhau phụ thuộc vào loại gia đình dựa trên tiêu chí mục đích: mục đích tồn tại, mục đích an toàn, mục đích dài hạn.

Loại hộ gia đình vay vốn để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống và đáp ứng những việc chi tiêu bất ngờ thường vay ngắn hạn.

Loại hộ gia đình vay vốn với mục tiêu an toàn lại có động cơ vay vốn là để huy động thêm nguồn lực nhằm duy trì các hoạt động của hộ gia đình và tối thiểu hoá rủi ro liên quan đến một số hoạt động và tài sản của họ thường có nhu cầu vay vốn trung hạn.



Loại hộ gia đình vay vốn để phục vụ cho chiến lược đầu tư và quản lý rủi ro của họ thường vay vốn dài hạn để có nguồn lực lớn hoặc đa dạng hoá tài sản.

Điểm khác biệt giữa 3 loại hộ gia đình này là quy mô tài sản, thời gian huy động và phân bổ các nguồn lực, cách thức tiếp cận việc quản lý rủi ro, mức độ đa dạng hoá các hoạt động chiến lược.

Tóm lại chúng ta đã xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định vay vốn, đặc biệt là vay tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình. Các phân tích trên cũng chỉ ra rằng vay vốn và các hoạt động khác của hộ gia đình như tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư và sản xuất có liên quan chặt chẽ với nhau.

Thứ hai, các nhân tố từ môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội, môi trường pháp lý và chủ trương chính sách của Nhà nước

- Môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội

Môi trường kinh tế là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động CVTD nói riêng thể hiện thông qua những biến số kinh tế như: thu nhập quốc dân, tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân, mức thu nhập bình quân đầu người, tốc độ tăng và tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ xuất nhập khẩu, tỷ lệ lạm phát… Chúng ta đã biết, nhu cầu CVTD hàng hoá, dịch vụ của dân cư phụ thuộc rất lớn vào tình trạng của nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển hưng thịnh, biến số kinh tế đều biến động tốt: thu nhập quốc dân tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định, tỷ lệ thất nghiệp giảm, thu nhập bình quân của người dân tăng, mức sống của dân cư ngày càng cao thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng, bởi vì họ tin tưởng vào thu nhập của mình trong tương lai có thể chi trả được các khoản nợ. Vì vậy, hoạt động CVTD của ngân hàng trong giai đoạn này sẽ tăng lên. Ngược lại khi diễn ra suy thoái kinh tế với các biến số kinh tế ở tình trạng tiêu cực sẽ gây mất lòng tin nghiêm trọng của người dân về triển vọng thu nhập của mình. Một cách trực tiếp và cụ thể hơn, nó làm giảm thu nhập bình quân của người dân và do đó nhu cầu về tín dụng tiêu dùng bị giảm sút. Một khía cạnh khác cần phải nhấn mạnh là nhưng chính sách kinh tế của Nhà nước. Một hệ thống chính sách kinh tế hợp lý thì không những thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn có những tác động tốt tới chất lượng CVTD.

Môi trường văn hoá xã hội thể hiện ở các tập quán xã hội, trình độ dân trí, lối sống, thói quen, bản sắc dân tộc, tâm lý tiêu dùng giữa các vùng và văn hóa cộng đồng. Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của khách hàng cũng như đến hoạt động CVTD của ngân hàng. Chẳng hạn, nếu một ngân hàng có áp dụng dịch vụ



CVTD trong khu vực có trình độ dân trí thấp, kiến thức về ngân hàng hầu như không có, nhu cầu mua sắm, tiêu dùng không cao thì dịch vụ CVTD và các hoạt động khác của ngân hàng rất chậm phát triển. Nhưng cũng chính ngân hàng này nếu được xây dựng trong khu vực có trình độ dân trí cao, thu nhập đầu người của dân cư lớn, nhu cầu mua sắm chi tiêu lớn, họ hiểu và sử dụng thường xuyên các dịch vụ của ngân hàng thì không chỉ dịch vụ CVTD mà cả các dịch vụ khác của ngân hàng cũng sẽ phát triển [4].

- Môi trường pháp lý

Tất cả hoạt động của các cá nhân và tổ chức đều bị chi phối bởi luật pháp của quốc gia nơi diễn ra hoạt động đó. Ở hầu hết các quốc gia, hoạt động ngân hàng nói chung và CVTD nói riêng luôn được đặt dưới một hệ thống các quy định chặt chẽ do các cơ quan Nhà nước ban hành nhằm kiểm soát hoạt động ngân hàng, kiểm soát hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng, chất lượng tín dụng, tình trạng vốn chủ sở hữu và cả cách thức ngân hàng phát triển, mở rộng hoạt động với mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng phục vụ cộng đồng và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh.

Lý do các ngân hàng bị kiểm soát chặt chẽ là vì lợi ích của người gửi tiền, vì ngân hàng có khả năng tạo tiền nên ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Hơn nữa các ngân hàng còn có khả năng cung cấp cho cá nhân và doanh nghiệp những khoản vay, tài trợ tiêu dùng hoặc đầu tư. Các nhà quản lý cho rằng xã hội thu được lợi ích to lớn nếu hệ thống ngân hàng cung cấp lượng tín dụng thích hợp. Khi có sự phân biệt đối xử trong cung cấp tín dụng, các cá nhân bị đối xử sẽ gặp không ít khó khăn nếu họ muốn cải thiện mức sống và nâng cao lợi ích cá nhân. Điều này đặc biệt đúng nếu yêu cầu tín dụng bị từ chối chỉ bởi các lý do về tuổi tác, giới tính, chủng tộc, đẳng cấp hoặc những nguyên nhân không hợp lý khác.

Do đó, có thể thấy, môi trường luật pháp thông thoáng, rõ ràng, có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ ngành sẽ giúp các ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả hơn [4].

- Môi trường văn hoá - xã hội

Quan hệ tín dụng được thực hiện trên cơ sở lòng tin. Nó là cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng. Đạo đức xã hội ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Trong trường hợp đạo đức xã hội không tốt, lợi dụng lòng tin để lừa đảo sẽ làm giảm chất



lượng tín dụng. Hơn nữa trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết về hoạt động ngân hàng cũng sẽ làm giảm chất lượng tín dụng.

- Môi trường khoa học và công nghệ

Phương thức trao đổi giữa ngân hàng và khách hàng trên thị trường rất nhạy cảm với các tiến bộ khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin cho phép ngân hàng đổi mới không chỉ quy trình nghiệp vụ mà còn đổi mới cách thức phân phổi như cho phép ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng 24/24h, internet banking, telephone banking,...

- Chủ trương, chính sách của Nhà nước

Đây là những chính sách mang tầm vĩ mô, có thời gian thực hiện tương đối dài thường được đề ra theo nhiệm vụ của từng năm. Ví dụ: Khuyến khích đầu tư nước ngoài, hay gia tăng đầu tư vào một số ngành trong nước, kích cầu để tạo điều kiện hàng hoá tiền tệ lưu thông nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hoặc là giảm qui định lãi suất trần của các ngân hàng… Tất cả những điều này đều nhằm mục đích làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững, nếu được thực hiện đúng sẽ nâng cao đời sống người dân, xã hội phát triển nhu cầu tiêu dùng và trình độ dân trí cũng thay đổi theo hướng thuận lợi cho phát triển CVTD. Cùng với nó là các chính sách về thuế (thu nhập, hàng hoá, dịch vụ), các chương trình ưu đãi hỗ trợ phát triển, xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo… Những yếu tố như thế đều có tác động trước mắt và lâu dài đến cầu tiêu dùng của người dân, đồng thời cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến CVTD. Những điều này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội, GDP sẽ tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, mức thu nhập của người lao động tăng, qua đó làm tăng nhu cầu tiêu dùng.

Ngoài ra những mối quan hệ, sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa các cơ quan cá nhân tổ chức đều ảnh hưởng đến hoạt động CVTD của ngân hàng. Những điều này lại chịu sự chi phối không nhỏ của những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, do đó ta có thể thấy được tầm ảnh hưởng của những đường lối chính sách này tới hoạt động CVTD [4].

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Kinh nghiệm cho vay tiêu dùng ở một số ngân hàng trên thế giới

1.2.1.1. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại Trung Quốc

Dịch vụ CVTD ngày càng trở nên phổ biến và được khuyến khích phát triển tại các NHTM Trung Quốc. Các nhà quản lý ngân hàng Trung Quốc đã nhận thấy



CVTD chính là “tương lai” của các NHTM và họ phải tập trung các nguồn lực của mình nhiều hơn cho lĩnh vực này.

Ngay từ cuối những năm 1990, Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc (CCB) đã dẫn đầu về phát triển lĩnh vực này: vào năm 1999, thời hạn cho vay có thể thế chấp được kéo dài từ 20 năm đến 30 năm; giá trị của khoản vay cũng được nâng từ mức 70% lên 80% giá trị tài sản thế chấp. Đồng thời, từ cuối năm 1999, CCB bắt đầu chấp thuận các khoản cho vay do các cá nhân đứng ra bảo lãnh, bãi bỏ yêu cầu người đi vay cần phải được người chủ lao động của mình đứng ra bảo đảm cho khoản vay. CCB còn có một kế hoạch đầy tham vọng là sử dụng các phương tiện kỹ thuật, công nghệ sẵn có của mình để phát triển hình thức dịch vụ ngân hàng Internet và đưa ra một số sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử bán lẻ.

Ngân hàng phát triển Thượng Hải - Phú Đông cũng là một trong số các ngân hàng ở Trung Quốc sớm có dịch vụ CVTD phát triển mạnh. Ngân hàng này đã hợp tác với các công ty chuyên kinh doanh bất động sản để đơn giản hóa các thủ tục về tài sản thế chấp và giảm số lần mà người vay phải đến giao dịch với một chi nhánh ngân hàng từ 20 lần xuống còn 3 lần. Từ tháng 8/1999, Ngân hàng Phát triển Thượng hải - Phú Đông đã phối hợp với các công ty du lịch lữ hành để đưa ra các khoản cho vay du lịch và kể từ thời điểm đó đã có 13 cặp vợ chồng nhận được các khoản vay để đi du lịch tuần trăng mật. Ngân hàng này cũng kéo dài thời hạn của các khoản vay dành cho đào tạo đại học từ 2 năm lên 4 năm và thành lập một quỹ đặc biệt dành cho các bậc cha mẹ vay vốn do muốn gửi con cái vào trường học tư nhân đắt tiền. Để thực hiện kế hoạch này, Ngân hàng Phát triển Thượng Hải - Phú Đông đã tăng gấp đôi số nhân viên marketing cho lĩnh vực CVTD chiếm hơn 20% tổng quỹ lương.

Nhìn chung, vì các khoản CVTD vẫn còn khá mới mẻ với cả người tiêu dùng và hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc nên hậu quả của vấn đề rủi ro chưa thể hiện đầy đủ, chưa lường hết được. Hầu hết các khoản CVTD là các khoản vay trung và dài hạn, với thời hạn từ 10 - 30 năm, cho nên khả năng trả nợ phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng gia đình, sức khỏe và công việc của người đi vay. Một số ngân hàng không có đầy đủ đánh giá về rủi ro tiềm tàng cũng như kinh nghiệm để ngăn chặn những rủi ro biết trước. Thêm vào đó, kể từ năm 2003, hoạt động cho vay của khu vực ngân hàng đã kích thích lạm phát gia tăng và nạn đầu tư quá mức trong các khu vực khác nhau đã trở thành mỗi lo ngại hàng đầu của chính phủ giữa lúc bao trùm

Ngày đăng: 03/07/2024