Ưu điểm của hình thức CVTD gián tiếp là: (i) Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số CVTD. (ii) Cho phép ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong cho vay.
(iii) Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động khác. Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, CVTD gián tiếp an toàn hơn CVTD trực tiếp.
Nhược điểm CVTD gián tiếp: (i) Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu nên ngân hàng không bảo đảm được những đối tượng khách hàng được vay tiêu dùng hoàn toàn đáp ứng được các điều kiện của ngân hàng. (ii) Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá. (iii) Kỹ thuật nghiệp vụ CVTD gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên mà CVTD gián tiếp không được các ngân hàng tích cực tham gia. Những ngân hàng tham gia vào hoạt động này thường có kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
- Căn cứ vào hình thức đảm bảo:
+ Cho vay tiêu dùng có tài sản bảo đảm (thế chấp): là phương thức cho vay mà khách hàng có tài sản để thế chấp hoặc cầm cố nhằm bảo đảm cho mức độ an toàn cho khoản vay của họ. Tài sản bảo đảm có thể là bất động sản, bất động sản hình thành từ vốn vay của ngân hàng hoặc tài sản thuộc sở hữu của khách hàng trước khi vay vốn ngân hàng. Tài sản bảo đảm làm tăng tính an toàn cho khoản vay do ngân hàng có thể tạo áp lực để buộc khách hàng phải trả nợ hoặc trong tình huống xấu nhất khách hàng không trả được nợ thì việc phát mại tài sản bảo đảm cũng giúp giảm bớt tổn thất cho ngân hàng. Cho vay có tài sản bảo đảm gồm có: (i) Cho vay cầm cố: Đây là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay với điều kiện là khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Danh mục và điều kiện của tài sản cầm cố được ngân hàng quy định cụ thể dựa trên quy định của pháp luật và chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Các tài sản cầm cố là các tài sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc nắm giữ không ảnh hưởng đến quy trình hoạt động của khách hàng, chẳng hạn như: các loại giấy tờ có giá, kim loại quý, ngoại tệ… (ii) Cho vay thế chấp: Trong hình thức cho vay này, người vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời hạn đã cam kết. Đối với thế chấp bằng tài sản thì những tài sản mang thế chấp thường là bất động sản như: nhà cửa, quyền sử dụng đất… hoặc là những động sản mà việc nắm
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ - 2
- Khái Quát Hoạt Động Kinh Doanh Cơ Bản Của Ngân Hàng Thương Mại
- Cho Vay Tiêu Dùng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Ảnh Hưởng Bởi Các Nhân Tố Khách Quan Thứ Nhất, Nhân Tố Khách Hàng
- Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Châu Âu
- Khung Phân Tích Nghiên Cứu Chất Lượng Cho Vay Tiêu Dùng
Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.
giữ nó không thuận tiện như: ô tô, xe máy… Việc thế chấp bằng tài sản cho phép người nhận tài trợ tiếp tục được sử dụng tài sản trong thời gian vay, tuy nhiên quá trình sử dụng có thể làm biến dạng tài sản, hơn nữa khả năng kiểm soát tài sản bảo đảm của ngân hàng bị hạn chế. Việc định giá tài sản bảo đảm cũng là một khó khăn đòi hỏi phải có sự thẩm định kỹ lưỡng, tránh định giá quá cao gây thiệt hại cho ngân hàng hoặc định giá quá thấp gây ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng. Tuy nhiên đối với CVTD thì tài sản bảo đảm cũng không quá lớn như nhà xưởng, dây chuyền sản xuất… như đối với cho vay kinh doanh.
Trong cho vay thế chấp còn có thêm hình thức cho vay thế chấp lương thường được áp dụng cho khách hàng có việc làm, thu nhập ổn định. Ngoài các khoản chi tiêu thường xuyên hàng tháng còn một phần tích luỹ để trả nợ vay. Số tiền ngân hàng cho khách hàng vay được xác định dựa trên nhu cầu muốn vay và thu nhập thường xuyên của khách hàng. Do đó, khi xét duyệt cho vay, ngân hàng cần thu thập đủ thông tin về các khoản thu nhập khác nhau cũng như các khoản chi tiêu thường xuyên khác của khách hàng. (iii) Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản bảo đảm, hoặc tài sản đó không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng thì ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng làm vật đảm bảo. Chẳng hạn khách hàng vay tiền mua ô tô, ngân hàng có thể yêu cầu lấy chính chiếc ô tô đó làm vật bảo đảm, khi khách hàng không có khả năng hoàn trả thì ngân hàng sẽ phát mại ô tô đó để thu nợ. Để đảm bảo rằng khách hàng sẽ không bán hoặc sử dụng không cẩn thận, làm giảm giá trị của tài sản, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải cam kết bảo quản tài sản, mua bảo hiểm và người thụ hưởng là ngân hàng đồng thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu tài sản cho ngân hàng.
+ Cho vay tiêu dùng không có tài sản bảo đảm (tín chấp): là phương thức cho vay mà khách hàng không có tài sản để thế chấp hoặc cầm cố để đảm bảo cho mức độ an toàn cho khoản vay của họ [2].
1.1.2.4. Vai trò của cho vay tiêu dùng
- Phương diện đối với nền kinh tế
+ Tác động tích cực: phát triển CVTD giúp cho các chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ trong nước, góp phần đẩy mạnh kích cầu nội địa, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, với mức thu nhập như hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là những vật dụng đắt tiền. Nếu người tiêu dùng có thể vay được tiền từ ngân hàng thì họ có thể thoả mãn được nhu cầu của họ ngay trong hiện tại.
Có thể nói rằng hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế, dù là trực tiếp hay gián tiếp cũng đều được hưởng những lợi ích do hoạt động của ngân hàng mang lại. Việc ngân hàng thực hiện CVTD không chỉ làm tăng sự tiêu dùng hàng hoá, làm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu, nâng cao chất lượng cuộc sống của người tiêu dùng, mà còn thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng khả năng cạnh tranh của các hãng sản xuất kinh doanh.
Thông qua hoạt động CVTD, các NHTM đã góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ kích cầu cho nền kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước từ đó hỗ trợ Nhà nước trong việc đạt được các mục tiêu xã hội như xoá đói, giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, giảm tệ nạn xã hội, cải thiện và nâng cao mức sống cho người dân. Đồng thời cũng tạo ra sự năng động cho nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của toàn xã hội một cách nhanh chóng [1].
+ Tác động tiêu cực: vay tiêu dùng nếu không được sử dụng đúng mục đích kích thích tiêu dùng nội địa, khách hàng vay tiêu dùng chỉ để mua sắm hàng hóa ngoại nhập, đi du lịch nước ngoài,… vừa không có tác dụng kích cầu trong nước, còn làm giảm đi khả năng tiết kiệm.
- Phương diện đối với người vay
+ Tác động tích cực: Thông qua vay tiêu dùng, người tiêu dùng được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền, nhờ đó góp phần nâng cao mức sống, tạo niềm hưng phấn, tích cực lao động sản xuất. Đặc biệt đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu có tính cấp bách như giáo dục và y tế. Đồng thời khuyến khích việc tăng thu nhập và tiết kiệm chi tiêu để trả nợ vay.
Đối với người tiêu dùng: CVTD là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của khách hàng. Nhờ những khoản vay tiêu dùng từ ngân hàng, họ có thể mua sắm những hàng hoá cần thiết, các hàng hoá xa xỉ, có giá trị cao, giúp thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả năng tài chính hiện tại của họ chưa cho phép thực hiện điều đó.
Việc ngân hàng thực hiện và phát triển hoạt động CVTD sẽ mang đến những lợi ích tốt, thiết thực cho khách hàng. Có thể nói rằng, khách hàng chính là những người hưởng lợi nhiều nhất và trực tiếp những lợi ích mà hình thức CVTD này mang lại.
Đối với người sản xuất: Mục tiêu của tất cả các nhà sản xuất là giá trị tăng thêm của tài sản, do đó dù bằng cách nào hay cách khác thì họ đều mong muốn tiêu thụ được càng nhiều hàng hóa càng tốt. Tuy nhiên, họ cũng phải đối mặt với một thực tế là không phải lúc nào khách hàng cũng có tiền để thanh toán ngay mà có thể trong vài tuần, vài tháng sau khi họ đã nhận được thu nhập hoặc sau khi đã tích luỹ đủ. Để đạt được mục tiêu tăng lợi nhuận, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ sản xuất cùng loại hàng hoá trên thị trường, các nhà sản xuất phải tìm đến ngân hàng để được tài trợ vốn. Thông qua hình thức CVTD gián tiếp này, các ngân hàng đã tạo điều kiện cho người sản xuất có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm, vòng quay vốn nhanh từ đó mở rộng được sản xuất và gia tăng thu nhập.
+ Tác động tiêu cực: Nếu lạm dụng việc đi vay để tiêu dùng vượt quá mức cho phép, mà không cố gắng làm việc và tiết kiệm để trả nợ sẽ ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng. Đồng thời, ảnh hưởng đến độ tín nhiệm của chính người vay, làm họ khó khăn hơn trong việc vay mượn lần sau.
- Phương diện đối với ngân hàng cho vay
+ Tác động tích cực: Hoạt động chủ yếu của NHTM là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó để cho vay. Vì vậy, song song với nỗ lực huy động vốn, các NHTM còn cố gắng tối đa cấp tín dụng cho mọi cá nhân, tổ chức kinh tế trong, ngoài nước và đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị tổng tài sản của ngân hàng.
Trong cho vay tiêu dùng, ngân hàng thường tài trợ cho khách hàng các nhu cầu tiêu dùng như mua ô tô, sắm sửa các phương tiện sinh hoạt, xây dựng và sửa chữa nhà ở hoặc tài trợ cho quá trình học tập…
Cho vay tiêu dùng tạo điều kiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ đó góp phần giúp các NHTM tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao thu nhập và phân tán được rủi ro. Trong điều kiện ngày nay, khi mà sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính
- ngân hàng ngày càng gay gắt, quyết liệt thì vai trò của CVTD thực sự quan trọng đối với các NHTM. Mặc dù cấp tín dụng cho các đối tượng này ngân hàng phải đối
mặt với nhiều rủi ro song ngày nay các ngân hàng đều tập trung khai thác vì hoạt động này tạo ra thu nhập cao cho ngân hàng và nó còn góp phần tăng khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng so với các định chế tài chính khác.
Nếu xét về tổng quy mô thì mức độ rủi ro của CVTD lớn (do quy mô lớn), nhưng thực tế do quy mô của mỗi khoản cho vay thường nhỏ và số lượng các khoản vay tiêu dùng lớn nên ngân hàng có thể phân tán được rủi ro tốt hơn. Các khoản vay tiêu dùng thường được cho vay với lãi suất khá cao nên CVTD vẫn được coi là khoản mục tín dụng có khả năng sinh lời cao nhất cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng giúp các NHTM mở rộng quan hệ với nhiều khách hàng. Do tính lan truyền trong dân cư là rất cao nên các ngân hàng có thể thông qua các khoản CVTD mà quảng cáo về mình, từ đó thu hút các khách hàng đến với các dịch vụ khác của ngân hàng và ngân hàng có khả năng mở rộng được các hoạt động dịch vụ, tận dụng được nguồn vốn huy động một cách hiệu quả. Hơn nữa, dân cư là khách hàng tiềm năng lớn của ngân hàng, để phát triển bền vững thì các ngân hàng cần phải dựa vào nhóm đối tượng này.
+ Tác động tiêu cực: Cho vay tiêu dùng có rủi ro tín dụng cao nên cần có biện pháp để khắc phục.
1.1.3. Chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Khái niệm chất lượng cho vay tiêu dùng
Chất lượng CVTD là những lợi ích mà nó mang lại cho cả người cho vay và người đi vay. Một khoản vay của ngân hàng có chất lượng tốt, khi nó mang lại lợi ích cho cả ngân hàng - đó là khoản lãi thu từ khách hàng và mang lại lợi ích cho khách hàng – đó là việc sử dụng vốn có hiệu quả và tạo ra lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Chất lượng CVTD chính là việc đáp ứng mục đích của các bên là người tiêu dung có điều kiện mua sắm, và ngân hàng thu được lời trong việc cho vay.
1.1.3.2. Nội dung đánh giá chất lượng cho vay tiêu dùng
a) Đánh giá cơ cấu cho vay tiêu dùng
Đánh giá cơ cấu CVTD cũng là một nội dung quan trọng trong xem xét, phân tích kết quả, hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông qua nghiên cứu, tìm hiểu về cơ cấu doanh sô cho vay, cơ cấu danh số cho vay theo từng sản phẩm, cơ cấu dư nợ, cơ
cấu dư nợ quá hạn và nợ xấu… để từ đó thấy được các xu hướng, diễn biến để giúp cho công tác quản trị, điều hành và ra các quyết định đúng trong cho vay tiêu dùng.
b) Đánh giá kết quả cho vay tiêu dùng theo loại hình sản phẩm
Từ thực trạng CVTD có thể tiến hành phân ra các loại hình sản phẩm cho vay chủ yếu: theo đặc điểm (mua nhà, ô tô, du học, mua sắm phương tiện đi lại…); mức độ (lớn, trung bình, nhỏ); thời hạn vay (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn)… để từ đó tiến hành đánh giá kết quả cho vay đối với từng sản phẩm, đánh giá các vấn đề liên quan khác trong từng loại hình vay tiêu dùng…
c) Đánh giá kết quả cho vay tiêu dùng thông qua quy trình cho vay
Thông qua đánh giá quy trình để tiếp cận, phân tích xem khả năng và thực tế tiếp cận của khách hàng đối với các loại sản phẩm CVTD như thế nào? Số khách hàng đến với ngân hàng làm thủ tục vay và số hồ sơ được chấp nhận CVTD. Việc đánh giá quy trình sẽ giúp cho chúng ta nhận biết được những mạnh/yếu, khó khăn, bất cập do chính quy trình tạo ra để từ đó có những điều chỉnh phù hợp, giúp cho hoạt động CVTD hiệu quả hơn.
d) Đánh giá hiệu quả cho vay tiêu dùng
Đây là một trong những nội dung quan trọng để đánh giá hoạt động CVTD. Để thực hiện nội dung này, chúng tôi sử dụng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả như: tỷ lệ vay tiêudùng/nguồn vốn; hệ số thu hồi nợ Tỷ lệ nợ quá hạn CVTD/nguồn vốn (tổng nguồn vốn và nguồn vốn dành cho vay tiêu dùng); Tỷ lệ nợ xấu CVTD tổng dư nợ và Tỷ lệ nợ xấu/nợ quá hạn; các chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận đem lại từ hoạt động CVTD (luận văn sẽ trình bày kỹ hơn tại Chương 2)….
e) Đánh giá về cho vay tiêu dùng của khách hàng
Để xem xét tính hiệu quả của CVTD, một trong những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu đó là khách hàng đánh giá như thế nào về CVTD của ngân hàng thể hiện trên các khía cạnh: ý kiến của khách hàng về các vấn đề liên quan đến CVTD (Quy trình, sản phẩm, dịch vụ…); hiệu quả đem lại của việc CVTD đối với chính khách hàng; các nguyện vọng của khách hàng đặt ra đối với phía ngân hàng khi tham gia CVTD…
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Chất lượng của các khoản CVTD chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố bao gồm nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Để có thể nâng cao chất lượng CVTD ngân hàng phải xem xét tác động của các nhân tố đến hoạt động cho vay của ngân hàng như thế nào, chỉ ra được những mặt tích cực và những hạn chế còn tồn tại. Từ đó, phát huy một cách hiệu quả những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực.
1.1.4.1. Ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan
Thứ nhất , chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Chiến lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng tới chất lượng CVTD. Chiến lược được hiểu là tầm nhìn của doanh nghiệp trong dài hạn về phương hướng, về quy mô phát triển, về thị trường, lợi thế, nguồn lực, môi trường ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh, giá trị kỳ vọng mà những người trong và ngoài doanh nghiệp cần.
Chiến lược kinh doanh liên quan đến khả năng cạnh tranh thành công trên một thị trường cụ thể. Chiến lược kinh doanh nó quyết định việc lựa chọn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, giành lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác, khai thác và tạo ra các cơ hội mới...
Thứ hai, chính sách tín dụng
Các khoản vay là tài sản lớn nhất của một ngân hàng. Sự lành mạnh của danh mục cho vay quyết định thu nhập của ngân hàng, cũng như tính hiệu quả của nó. Ngân hàng luôn tìm cách cung cấp tối đa các dịch vụ tín dụng nhưng phải tuân theo nguyên tắc thận trọng, an toàn và thanh khoản. Chính sách tín dụng là nguyên tắc cơ bản chi phối mở rộng hoạt động tín dụng. Một chính sách tín dụng được hoạch định tốt, phù hợp với các quy luật khách quan là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả tín dụng nói chung và hiệu quả CVTD nói riêng.
Trong từng thời kỳ khác nhau các ngân hàng luôn đặt ra các chỉ tiêu hoạt động khác nhau, phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Căn cứ vào đó, ngân hàng tiến hành xây dựng các biện pháp cụ thể để đạt mục tiêu cụ thể đề ra. Việc có một chính sách tín dụng hợp lý vừa giúp ngân hàng giảm thiểu các rủi ro, đồng thời tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu đề ra.
Chính sách cho vay của ngân hàng: là hệ thống các chủ trương, định hướng quy định chi phối hoạt động cho vay do Hội đồng quản trị đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân. Thông
thường chính sách cho vay có các khoản mục sau: hạn mức cho vay, các loại hình cho vay mà ngân hàng thực hiện, quy định về tài sản đảm bảo, kỳ hạn của các khoản cho vay, hướng giải quyết phần cho vay vượt quá hạn mức cho vay, cách thức thanh toán nợ... Chính sách cho vay vạch ra cho các cán bộ tín dụng hướng đi và khung tham chiếu rõ ràng về những căn cứ để xem xét các nhu cầu vay vốn. Vì vậy, những yếu tố trong chính sách cho vay đều tác động một cách mạnh mẽ tới việc mở rộng cho vay nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Nếu như có những hình thức CVTD không nằm trong chính sách cho vay của ngân hàng thì chắc chắn khách hàng chẳng thể mong đợi vay được những khoản tiền từ ngân hàng để tài trợ cho như cầu chi tiêu của mình. Chẳng hạn như một ngân hàng không thực hiện cho vay theo thẻ tín dụng thì khách hàng dù có đủ điều kiện cũng không được cấp tín dụng. Mặt khác khi một ngân hàng đã sẵn có các hình thức CVTD đa dạng với chất lượng tốt thì việc mở rộng cũng dễ dàng và thuận lợi hơn là các ngân hàng mới chỉ có các sản phẩm đơn giản. Do tính chất cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt thì một chính sách cho vay đúng đắn hợp lý là yếu tố thu hút khách hàng hiệu quả. Ngân hàng càng đa dạng hóa các mức lãi suất phù hợp với từng loại khách hàng, có chính sách sản phẩm hấp dẫn thì càng thu hút được khách hàng, từ đó thực hiện thành công việc mở rộng CVTD.
Thứ ba, quy mô và cơ cấu vốn của ngân hàng: Quy mô của ngân hàng là yếu tố quan trọng quyết định cấu trúc, danh mục cho vay của ngân hàng, đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu được sử dụng để xác định mức cho vay tối đa đối với một khách hàng. Nếu như các ngân hàng lớn là các ngân hàng bán buôn, chủ yếu cung cấp các khoản tín dụng giá trị lớn cho khách hàng là tổ chức kinh tế, thì các ngân hàng nhỏ lại tập trung vào nghiệp vụ tín dụng bán lẻ dưới dạng các khoản cho vay cá nhân với giá trị nhỏ, cho vay các hộ gia đình, chủ trang trại nhỏ.
Quy mô vốn là yếu tố quyết định hạn mức tín dụng, do đó nó ảnh hưởng lớn đến CVTD. Ngoài ra, với nguồn vốn dồi dào cho phép ngân hàng triển khai các chiến lược Marketing hiệu quả, thực hiện tốt công tác đào tạo nguồn nhân lực, áp dụng công nghệ mới, góp phần thúc đẩy CVTD.
Thứ tư, chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay tiêu dùng: Trong điều kiện hiện nay, khi mà mức sống của người dân được cải thiện, thu nhập của người dân ngày càng được nâng cao thì nhu cầu của người dân ngày càng phong phú đa dạng. Việc đa dạng hóa các sản phẩm của ngân hàng là rất cần thiết,