Rủi Ro Rút Ra Từ Tình Huống 5: Rủi Ro Do Trình Độ Nghiệp Vụ Ngoại Thương Người Nhập Khẩu Còn Hạn Chế


Việt Nam nhập thép, sắt phế liệu về thì chỉ nhận được bùn đất, đá dăm, cũng có trường hợp DN nhập hàng về thì phát hiện hàng hóa bị thiếu hay hư hỏng. Khi đó DN Việt Nam phải tiến hành khiếu nại, tranh chấp và sẽ tốn nhiều thời gian, chi phí. Trong nhiều trường hợp khi DN Việt Nam liên lạc qua bên nước ngoài hoặc tiến hành khiếu nại thì phát hiện DN XK đã tuyên bố phá sản hoặc đem hết tài sản bỏ trốn hoặc thực chất chỉ là một DN “ảo”. Hậu quả là DN Việt Nam sẽ bị tổn thất nặng nề, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và trong trường hợp xấu nhất, DN có thể thể bị phá sản.

Về phía NH, NH chỉ kiểm tra về tính hợp lệ của BCT làm cơ sở cho việc thanh toán mà không căn cứ vào việc kiểm tra thực tế hàng hóa. Theo quy định tại điều 5 UCP600, NH chỉ giao dịch bằng chứng từ chứ không phải hàng hóa vì thế có thể xảy ra trường hợp người XK cố ý gian lận khi xuất trình chứng từ giả mạo hoàn hảo để qua mắt NH trong khi hàng hóa nhập về không đúng với các điều khoản về số lượng, bị hư hại hoặc thậm chí không giao hàng. Trong trường hợp này, sau khi kiểm tra thấy BCT phù hợp với nội dung L/C thì theo điều 15 UCP600, NH phải tiến hành trả tiền cho bên nước ngoài và người NK vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền đã thanh toán cho NH. Lúc này người NK phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề. Theo nguyên tắc, NH đã thanh toán căn cứ dựa trên bề mặt chứng từ phù hợp với các điều khoản của L/C nên người NK không có căn cứ để yêu cầu NH xuất trình trả lại tiền. Điều này sẽ gây thiệt hại lớn cho người NK và cả NH vì trong trường hợp NH cấp tín dụng thì cũng có khả năng bị rủi ro khi gặp khó khăn trong việc thu hồi lại khoản tiền vay đúng hạn. Trong tình huống này, thông thường, NH sẽ tư vấn người NK tiến hành thủ tục kiện tụng, tranh chấp nhưng cả hai sẽ mất thêm thời gian, chi phí, gặp khó khăn trong việc xoay vòng vốn. Mặt khác, mặc dù NH luôn kiểm tra kỹ lưỡng BCT nhưng không phải trong mọi trường hợp, người NK và SGD 1 EIB đều có thể phát hiện ra dấu hiệu lừa đảo để đề nghị điều tra hay dừng thanh toán. Do vậy, đây vẫn là một trong những rủi ro tiềm ẩn, có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với NH và người NK.

Tuy nhiên, không phải lúc nào việc hàng hóa nhập về không đúng như mô tả trong L/C cũng do người XK cố ý lừa đảo. Có những trường hợp người XK giao hàng hoàn toàn đúng như trong chứng từ, nhưng trong quá trình bốc dỡ hàng lên tàu hoặc trong quá trình vận chuyển xảy ra sự cố, va đập hàng hóa khiến cho hàng hóa


bị hư hại. Việc hư hại này xảy ra hoàn toàn nằm ngoài chủ ý cũng như mong muốn của các bên. Khi xảy ra trường hợp này, nếu như những thiệt hại không nằm trong phạm vi được bảo hiểm, hai bên sẽ phải chủ động bàn bạc, thỏa thuận để đưa ra các biện pháp giải quyết, khắc phục hậu quả thích hợp. Ví dụ như người NK có thể trả hàng hóa lại hoặc người XK sẽ giảm số tiền thanh toán cho lô hàng này hoặc giảm giá cho đơn hàng tiếp theo giữa hai bên.

2.3.2.5. Rủi ro rút ra từ tình huống 5: Rủi ro do trình độ nghiệp vụ ngoại thương người nhập khẩu còn hạn chế

Thực tế hiện nay trình độ nghiệp vụ ngoại thương của các DN hoạt động XNK ở TP.HCM chưa thật sự đồng đều. Bên cạnh các DN NK lâu năm đã có nhiều kinh nghiệm, quen thuộc và hiểu biết rõ nghiệp vụ ngoại thương nói chung và phương thức thanh toán TDCT nói riêng vẫn còn đó một số DN còn hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như về khả năng vận dụng UCP600 trong thanh toán TDCT. Đặc biệt là các DN mới, hoạt động chưa lâu, những DN này đôi khi còn chưa thật sự hiểu rõ hết các thông lệ quốc tế, còn thiếu kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng nên dễ chịu nhiều thua thiệt, chọn những điều khoản không thật sự có lợi cho mình trong hợp đồng ngoại thương. Bên cạnh đó, một số DN còn gặp khó khăn trong việc thu thập, nắm bắt các thông tin thị trường, thông tin về đối tác nước ngoài, dễ dẫn đến việc gặp phải rủi ro do thị trường hàng hóa nhập về thay đổi theo chiều huớng xấu hay bị đối tác lừa đảo làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh và khả năng thanh toán cho NH. Nhiều DN khi lập đơn đề nghị mở L/C còn mắc nhiều sai sót như: nộp bộ hồ sơ không đủ nên phải chờ bổ sung, các loại giấy tờ không khớp với nhau v..v.. Những sai sót này khiến DN phải tốn thêm thời gian để lên NH bổ sung, sửa chữa bộ hồ sơ cho hoàn chỉnh theo đúng yêu cầu NH dẫn đến việc phát hành L/C bị chậm lại và kéo theo việc giao hàng cũng bị chậm lại, ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN khiến cho DN có thể gặp phải rủi ro và từ đó ảnh hưởng đến NH.

2.3.2.6. Rủi ro rút ra từ tình huống 6 và 7: Rủi ro kỹ thuật nghiệp vụ

SGD 1 EIB với hoạt động thanh toán NK khá lớn, số lượng chứng từ cần xử lý mỗi ngày khá nhiều, đa dạng và phức tạp, đòi hỏi nhân viên xử lý giao dịch cần phải có kinh nghiệm và chuyên môn vững, nắm rõ quy trình nghiệp vụ cũng như các biện pháp phối hợp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán NK bằng phương thức


TDCT. Phòng thanh toán NK thuộc SGD 1 EIB với đội ngũ cán bộ trẻ trung, nhiệt tình với công việc, có trình độ chuyên môn, khả năng xử lý nghiệp vụ và các tình huống xảy ra đối với DN đã hoạt động, hoàn thành tốt vai trò của mình trong công việc, làm cho khách hàng hài lòng với dịch vụ của NH. Tuy nhiên, do số lượng công việc mỗi ngày khá nhiều, áp lực công việc khá cao cộng với việc đội ngũ cán bộ còn rất trẻ nên đôi khi vẫn có khả năng xảy ra những sai sót trong việc lập L/C, xử lý BCT như chuyển tải không hết hoặc không đúng nội dung trên đơn đề nghị mở L/C, không kiểm tra kỹ lưỡng BCT để BCT có lỗi, thiếu kinh nghiệm xử lý các tình huống phát sinh v..v..

Ngoài ra, do có nhiều văn bản, điều luật khác nhau giữa từng bộ phận của hoạt động NK làm cho việc nhận thức và áp dụng các văn bản quy định của mỗi cán bộ trong hoạt động NK nói chung và NH nói riêng còn khác nhau, nên nếu cán bộ NH không am tường nắm bắt kịp thời, có kiến thức sâu rộng về các văn bản, điều luật cả trong và ngoài nuớc thì sẽ không thể ngăn ngừa được một số rủi ro ngoài ý muốn trong việc thực hiện thanh toán TDCT.

2.3.2.7. Rủi ro rút ra từ tình huống 8: Rủi ro do người nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản/Rủi ro tín dụng

NH khi phát hành L/C tức là đã cam kết cho việc trả tiền của người NK nếu BCT hợp lệ. Vì thế, tuy người NK chưa phải trả tiền nhưng đã được người XK giao hàng vì tin tưởng vào cam kết của NH phát hành. Do đó, rủi ro đối với SGD 1 EIB có thể xảy ra khi người NK vì một lý do nào đó tạm thời mất khả năng thanh toán hoặc có thể bị phá sản. Khi đó, NH vẫn phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo quy định của L/C. Tuy NH luôn có các biện pháp để thu hồi lại số tiền thanh toán từ khách hàng như các cam kết hay thế chấp về tài sản, nhưng với việc dùng tiền của NH để thanh toán sau đó mới lấy lại từ từ thì doanh thu từ các hoạt động khác sẽ giảm do bị giam vốn. NH sẽ mất đi một khoản lợi nhuận tiềm năng.

Thông thường, các DN có thể mở một L/C bằng vốn tự có của mình hoặc bằng vốn vay NH. Đối với những L/C mở bằng vốn tự có hay bằng vốn vay NH, NH đều cho phép một tỷ lệ ký quỹ tương đối nhỏ áp dụng cho các khách hàng quen thuộc, giao dịch thường xuyên. Trong những trường hợp này, nếu người NK gặp rủi ro trong kinh doanh dẫn đến tình trạng thua lỗ, vỡ nợ, phá sản hay mất khả năng thanh toán khi lô hàng về thì sẽ gây ra rủi ro rất lớn cho NH. NH vẫn phải thanh toán cho


người hưởng lợi khi nhận được BCT hợp lệ trong khi số tiền ký quỹ không đủ bù đắp tổn thất do DN ký quỹ không đủ 100% trị giá L/C. Mặc dù SGD 1 EIB đã yêu cầu DN lập vận đơn theo lệnh của mình để bảo lưu quyền sở hữu của NH đối với lô hàng nhưng việc giải tỏa và tiêu thụ lô hàng để thu hồi vốn cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, tốn nhiều thời gian và chi phí, làm một lượng vốn của NH bị ứ đọng. Qua đó, ta có thể thấy việc phát hành L/C luôn mang yếu tố rủi ro đối với NH, đặc biệt là khi người NK ký quỹ không đủ 100% trị giá L/C.

Hiện nay, nhiều DN NK trên địa bàn TP.HCM vẫn còn hạn chế về tiềm lực tài chính. Do đó, khi quan hệ NK với DN nước ngoài thì họ chủ yếu dựa vào vốn vay của NH. Thực tế, số lượng L/C do SGD 1 EIB phát hành bằng vốn vay của NH hiện chiếm một số lượng đáng kể trong tổng số L/C. Bởi vậy, NH cũng sẽ gặp phải rủi ro khi người NK mất khả năng thanh toán hoặc không thể thanh toán đúng hạn khoản vay khi có vấn đề xảy ra xoay quanh lô hàng NK như phương án NK không hiệu quả, hàng nhập về không tiêu thụ được do nhu cầu và giá cả trên thị trường thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho người NK… Việc NH có thu hồi lại được vốn hay không phụ thuộc rất nhiều vào kết quả kinh doanh sản xuất của DN. Mặc dù NH đã thực hiện nghiêm ngặt các giải pháp bảo đảm tiền vay theo nghiệp vụ tín dụng nhưng việc thực hiện các biện pháp thu hồi lại tiền như tiến hành phát mại số tài sản thế chấp đảm bảo (trong truờng hợp DN phá sản) vẫn sẽ phải tốn một khoảng thời gian, công sức trong khi đó một lượng vốn của NH thay vì có thể được đem đầu tư cho các hoạt động khác tạo lợi nhuận sẽ bị đóng băng trong khoảng thời gian đó.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trước khi bước vào xem xét, phân tích các rủi ro xảy ra trong phương thức thanh toán TDCT đối với hàng NK tại SGD 1 EIB, chương 2 của khóa luận đã giới thiệu một cách tổng quát về SGD 1 EIB cũng như về thực trạng hoạt động thanh toán hàng NK bằng phương thức thanh toán TDCT tại NH. Sau đó, khóa luận đã đi sâu vào nghiên cứu, phân tích những rủi ro trong việc sử dụng phương thức thanh toán TDCT trong thanh toán hàng NK tại NH. Qua đó thấy được, tuy phương thức thanh toán TDCT là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến do những ưu điểm của nó như ràng buộc trách nhiệm các bên tham gia một cách cụ thể, chi tiết; có sự tham gia của NH với tư cách là người cam kết nên đảm bảo quy trình thanh toán được tiến hành trôi chảy, an toàn; cân bằng lợi ích, đảm bảo quyền lợi của cả hai bên NK, XK và giải quyết được mâu thuẫn không tín nhiệm nhau của cả hai bên: Bảo đảm người XK giao hàng, thu được tiền thanh toán một cách chắc chắn, người NK nhận được hàng hóa một cách kịp thời nhưng phương thức này không hoàn hảo, an toàn một cách tuyệt đối. Vẫn còn đó những rủi ro tiềm ẩn thường trực có thể xảy ra bất cứ lúc nào gây thiệt hại về tài chính và uy tín không chỉ cho các DN tham gia NK mà cho cả NH như: rủi ro chính trị, xã hội, rủi ro tỷ giá, rủi ro do thị trường hàng hóa NK, rủi ro do người XK lừa đảo, rủi ro do trình độ nghiệp vụ ngoại thương người NK còn hạn chế, rủi ro kỹ thuật nghiệp vụ và rủi ro do người NK chậm hay mất khả năng thanh toán. Và vấn đề đặt ra là làm thế nào để hạn chế tối đa các rủi ro này cho các NH thương mại nói chung và đặc biệt là đối với SGD 1 EIB. Những phân tích rủi ro ở chương 2 này sẽ là những tiền đề cho việc đề ra những giải pháp, kiến nghị ở chương sau. Chương 3 của khóa luận sẽ giới thiệu một số biện pháp mà SDG 1 cũng như các chi nhánh khác của EIB có thể áp dụng nhằm phòng ngừa tối đa khả năng xảy ra các loại rủi ro này và nâng cao mức độ an toàn trong thanh toán hàng NK bằng phương thức L/C.


CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG THANH TOÁN HÀNG NHẬP KHẨU BẰNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH 1 EXIMBANK


3.1. GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG THANH TOÁN HÀNG NHẬP KHẨU BẰNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH 1 EXIMBANK

3.1.1. Giải pháp 1: Thực hiện các biện pháp ngăn ngừa người bán không giao hàng hay giao hàng không đúng L/C, lập chứng từ giả để đòi tiền

Bảng 3.1 Tóm tắt mục tiêu, cách thực hiện và hiệu quả dự kiến của giải pháp 1



Mục tiêu giải pháp

- Hạn chế rủi ro do sự không trung thực của người XK, bảo vệ quyền lợi của người NK.

- Đảm bảo uy tín NH trong thị trường trong nước và quốc tế.


Cách thực hiện

- Chú trọng việc tìm hiểu kỹ đối tác của DN Việt Nam.

- Mở rộng mạng lưới các NH đại lý và văn phòng đại diện ở các thị trường chiếm tỷ trọng lớn và các thị trường có rủi ro cao.

- Đề nghị người NK đưa thêm một số yêu cầu đối với các loại chứng từ phải xuất trình để bảo đảm tính chân thật của chứng từ.

- Khuyến cáo người NK nên cử đại diện giám sát, kiểm tra quá trình xếp hàng lên tàu.

- Quy định trong hợp đồng điều khoản Penalty.

- Nâng cao khả năng phát hiện chứng từ giả mạo.

- Đề nghị DN NK theo điều kiện FOB.


Dự kiến hiệu quả

- Giúp khách hàng hạn chế gặp phải những DN nước ngoài lừa đảo.

- Hạn chế khả năng xảy ra rủi ro do sự không trung thực của người XK trong quá trình giao hàng, qua đó đảm bảo được quyền lợi DN.

- Góp phần ngăn ngừa việc người XK lập chứng từ giả để đòi tiền.

- Tạo sự an tâm cho khách hàng, đặc biệt là các khách hàng mới khi sử dụng phương thức thanh toán TDCT tại NH và từ đó tiếp tục tin tưởng sử dụng dịch vụ của NH.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 74 trang tài liệu này.

Giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại sở giao dịch 1 Eximbank - 6


3.1.1.1. Mục tiêu giải pháp

Đây là giải pháp nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro 2.3.2.4 đã nêu ở phần thực trạng rủi ro của NH: Trong vài trường hợp, người XK cố ý lừa đảo bằng việc xuất trình một BCT đầy đủ, hợp lệ để nhận tiền thanh toán trong khi thực tế lại giao hàng không đúng với số lượng, chất lượng đã quy định trong L/C, thậm chí là không giao hàng khiến DN bị thiệt hại nặng nề, phải tốn thời gian công sức cho việc khiếu nại, tranh chấp và ảnh hưởng đến NH.

Thời gian gần đây có rất nhiều DN Việt Nam bị thiệt hại nặng nề do sự không trung thực của người XK trong hoạt động thương mại NK. Sự không trung thực của người XK không chỉ ảnh hưởng tới DN mà còn có thể gây rủi ro cho NH. Điều này đòi hỏi NH cần phải thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa các hành vi không trong sáng của người XK như không giao hàng, giao hàng không đúng L/C, lập chứng từ giả để đòi tiền. Qua đó NH có thể hạn chế được rủi ro có thể phát sinh, giúp người NK bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình và đảm bảo được uy tín của NH trong thị trường trong nước cũng như quốc tế.

3.1.1.2. Cách thực hiện

Việc đầu tiên NH cần làm là chú trọng việc tìm hiểu kỹ đối tác giao dịch của DN Việt Nam ngay từ khi DN gửi đơn xin mở L/C. Nếu đối tác của khách hàng là một DN nước ngoài có uy tín hoặc được NH hiểu biết rõ do đã từng là đối tác giao dịch với các DN khác mở L/C tại NH thì không sao. Nhưng nếu đối tác nước ngoài là một DN lạ lẫm, nằm ngoài tầm hiểu biết của NH và nhất là nằm trong những thị trường cung ứng có rủi ro lớn, đã từng xảy ra lừa đảo như Châu Phi, Trung Đông thì việc tìm hiểu ban đầu này là vô cùng cần thiết và có tác dụng quan trọng trong việc hạn chế rủi ro do sự không trung thực của người XK trong thanh toán L/C. Khi tiến hành giao dịch với một DN nước ngoài mới, trước tiên NH cần tìm hiểu tư cách pháp nhân, năng lực tài chính, mức độ uy tín và các thông tin liên quan khác của DN đó. Việc tìm hiểu thông tin có thể được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau như thông qua các NH đại lý, các tổ chức xúc tiến thương mại, tham tán thương mại tại quốc gia đó, các tạp chí chuyên ngành, các tổ chức quốc tế có uy tín …

NH cần mở rộng mạng lưới các NH đại lý và văn phòng đại diện ở các thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động ngoại thương và các thị trường có rủi ro cao như Trung Đông, Châu Phi. Bằng cách này, NH vừa có thể giảm chi phí vừa có thể có thêm nguồn cung cấp thông tin để có thể hỗ trợ cho DN trong việc tìm hiểu


thông tin về bạn hàng và thực hiện hoạt động thanh toán TDCT một cách an toàn, hiệu quả và nhanh chóng.

Để hạn chế xảy ra việc người XK giao hàng không đúng L/C, sử dụng chứng từ giả mạo, khi giao dịch với các DN nước ngoài mà NH chưa thực sự hiểu rõ, NH cần đề nghị người NK đưa thêm một số yêu cầu đối với các loại chứng từ phải xuất trình được quy định trong L/C:

- Vận đơn nếu có thể phải do hãng tàu có văn phòng đại diện ở Việt Nam phát hành để người NK có thể xác định tính chân thật của Vận đơn và tình trạng lô hàng.

- Hoá đơn thương mại phải có sự xác nhận của đại diện phía NK hoặc của Phòng Thương mại hoặc là hoá đơn lãnh sự (Consular’s invoice).

- Giấy chứng nhận xuất xứ phải được cấp bởi phòng thương mại công nghiệp ở nước người XK. Người NK cần yêu cầu rõ ràng: “Giấy chứng nhận xuất xứ do phòng thương mại công nghiệp xxx phát hành 3 bản”

.- Giấy chứng nhận chất lượng, giấy chứng nhận số lượng phải do cơ quan có uy tín ở nước XK hoặc quốc tế cấp hoặc nếu do bên XK lập thì phải có sự giám sát kiểm tra và ký xác nhận vào giấy chứng nhận của đại diện phía người NK.

- Người NK có thể yêu cầu cung cấp thêm giấy chứng nhận kiểm tra (Certificate of inspection).

Bên cạnh đó, NH cần yêu cầu người NK quy định trong hợp đồng điều khoản Penalty việc phạt bên nào không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Kế đó, trong quá trình xếp hàng lên tàu, NH cần khuyến cáo người NK nên cử đại diện giám sát, kiểm tra để đảm bảo hàng hóa được giao đầy đủ, đúng chất lượng và kịp thời đối chiếu sự thật giả của Vận đơn và lịch trình tàu (đối với lô hàng có giá trị lớn). Đồng thời NH cần nâng cao khả năng phát hiện chứng từ giả mạo để hạn chế bớt các rủi ro, góp phần bảo vệ quyền lợi của khách hàng. NH cần chú ý khi gặp những hợp đồng có điều bất thường, ví dụ như giá cả hàng hóa thấp hơn nhiều so với giá cả thị trường hoặc có cước phí vận chuyển rẻ bất ngờ. Ngoài ra, NH có thể đề nghị DN lựa chọn NK theo điều kiện FOB để giành quyền chọn hãng tàu, qua đó tăng cường khả năng giám sát hàng hóa ở cảng xuất.

3.1.1.3. Hiệu quả giải pháp có thể mang lại

Bằng cách tìm hiểu kỹ thông tin về bên XK, NH có thể giúp khách hàng của mình hạn chế việc gặp phải những DN nước ngoài lừa đảo, có khả năng gây ra rủi ro. Đồng thời việc NH khuyến cáo người NK cử đại diện kiểm tra, giám sát trong

Xem tất cả 74 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí