Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh

hiệu quả của từng loại chi phí. Đó là đòi hỏi cần thiết giúp cho công tác quản lý kinh doanh tìm được hướng giảm chi phí cá biệt và giảm chi phí tổng hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.

3.4. Phân loại khác:

Căn cứ vào thời gian đạt được kết quả kinh doanh có thể phân loại thành hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài.

Hiệu quả trước mắt: Là hiệu quả được xem xét trong thời gian ngắn.

Hiệu quả lâu dài: Là hiệu quả được đánh giá và xem xét trong thời gian

dài.

Doanh nghiệp vần phải xem xét thực hiện các hoạt đôngk kinh doanh sao

cho mang lại cả hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài, không nên vì hiệu quả trước mắt mà làm thiệt hại đến hiệu quả lâu dài của doanh nghiệp.

4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh

Sự thành công trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu không tính đến vận may, chỉ xuất hiện khi kết hợp hài hòa các yếu tố bên trong và bên ngoài. Chỉ trên cơ sở nắm vững các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới đề ra được những mục tiêu và chiến lược đúng đắn. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như lao động, vốn… nhưng tựu chung lại thì bao gồm hai nhân tố chính: Nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

4.1. Nhân tố khách quan

4.1.1. Môi trường vĩ mô:

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam - 3

4.1.1.1 Môi trường chính trị - luật pháp:

Để kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải phân tích, dự đoán về chính trị và luật pháp cùng xu hướng vận động của nó bao gồm:

- Sự ổn định chính trị và đường lối ngoại giao.

- Sự cân bằng các chính sách của Nhà nước.

- Vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ

- Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế.

- Sự phát triển các quyết định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

- Hệ thống pháp luật, sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành chúng.

4.1.1.2. Môi trường kinh tế

Các yếu tố kinh tế bao gồm các nhân tố tác động đến sức mua của khách hàng và dạng tiêu dùng hàng hóa, “là máy đo nhiệt” của thị trường, quy định cách thức doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực của mình, bao gồm:

- Sự tăng trưởng kinh tế.

- Sự thay đổi về cơ cấu sản xuất và phân phối.

- Tiềm năng kinh tế và sự gia tăng đầu tư.

- Lạm phát, thất nghiệp.

- Các chính sách về lãi xuất, tín dụng, tỷ giá…

4.1.1.3. Kỹ thuật và công nghệ

Yếu tố kỹ thuật và công nghệ làm cơ sở cho yếu tố kinh tế, là sức mạnh “tàn phá sáng tạo” dẫn đến sự ra đời của sản phẩm mới, sẽ tác động vào mô thức tiêu thụ và hệ thống bán hàng. Ngược lại yếu tố kỹ thuật bị ảnh hưởng của cách thức quản lý vĩ mô. Khi xét đến nhân tố kỹ thuật và công nghệ, doanh nghiệp cần quan tâm đến những vấn đề sau:

- Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân

- Tiến bộ kỹ thuật và khả năng ứng dụng kỹ thuật trong hoạt động kinh doanh

- Chiến lược phát triển kỹ thuật, công nghệ của nền kinh tế.

Bên cạnh các yếu tố trên, môi trưỡng vĩ mô còn có các nhân tố khác ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp như: yếu tố văn hóa xã hội, yếu tố môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng…

4.1.2. Môi trường vi mô

4.1.2.1. Khách hàng

Khách hàng có thể là các cá nhân, nhóm người, doanh nghiệp có khả năng thanh toán về hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mà chưa được đáp ứng và mong được thỏa mãn.

Thị trường của doanh nghiệp là tập hợp khách hàng rất đa dạng, khác nhau về lứa tuổi, sở thích, giới tính… Doanh nghiệp có thể chia khách hàng nói chung thành những nhóm khách hàng khác nhau, mỗi nhóm có đặc trưng riêng phản ánh quá trình mua sắm của họ:

- Theo mục đích mua sắm: có khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng, những khách hàng trung gian, Chính phủ và các tổ chức phi lợi nhuận.

- Theo thành phần kinh tế: có khách hàng là cá nhân, tập thể hay doanh nghiệp nhà nước. Nguồn gốc khác nhau của đồng tiền thanh toán và sự tiêu dùng cho chính họ hay tập thể và những người khác là đặc trưng của nhóm khách hàng này.

- Căn cứ vào khối lượng mua sắm hàng hóa: có thể có khách hàng mua với khối lượng lớn, có thể có khách hàng mua với khối lượng nhỏ.

- Căn cứ vào phạm vi địa lý: có khách hàng trong vùng, trong địa phương; trong nước và quốc tế

- Theo mối quan hệ của khách hàng với doanh nghiệp: có khách hàng truyền thống và khách hàng mới.

Yếu tố văn hóa, xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và hành vi của con người qua đó ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của khách hành. Do vậy, doanh nghiệp cần phải dành thời gian khảo sát, nghiên cứu thật kỹ yếu tố này để nắm bắt được hành vi tiêu dùng của khách hàng.

4.1.2.2. Nhà cung cấp

Nhà cung cấp là các tổ chức, doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ cần thiết cho doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp cần phải xác định số lượng, chủng loại mặt hàng, sự lớn mạnh và khả năng cung ứng của nguồn hàng trong hiện tại lẫn trong tương lai. Để có quyết định mua đúng đắn, doanh nghiệp cần xác định rõ đặc điểm của từng nguồn hàng trên cơ sở đó lựa chọn đơn vị cung ứng tốt nhất về chất lượng, có uy tín giao hàng, có độ tin cậy cao và giá rẻ…

4.1.2.3. Đối thủ cạnh tranh

Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như các hoạt động kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường đều phải cạnh tranh. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn xuất hiện các đối thủ cạnh tranh. Mặt khác các đối thủ cạnh tranh thường xuyên thay đổi các chiến lược kinh doanh bằng nhiều biện pháp khác nhau. Luôn đổi mới và thích ứng được sự cạnh tranh mới là yếu tố cần thiết. Phải đề ra các biện pháp thích ứng và có các biện pháp phương hướng đi trước đối thủ là một việc làm luôn được quan tâm.

Ngoài các yếu tố trên, khi xét đến những yếu tố thuộc môi trường vi mô ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp còn bao gồm: trung gian thương mại, công chúng…

4.2. Nhân tố chủ quan

4.2.1. Nguồn nhân lực

Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh theo các hướng sau:

- Trình độ lao động: Nguồn nhân lực có trình độ lao động cao sẽ góp phần thực hiện tốt yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.

- Cơ cấu lao động: Doanh nghiệp có cơ cấu lao động hợp lý, trước hết nó góp phần vào sử dụng có hiệu quả bản thân các yếu tố lao động trong quá trình kinh doanh, mặt khác nó góp phần tạo lập và thường xuyên điều chỉnh mối quan hệ tỷ lệ hợp lý, thích hợp giữa các yếu tố trong quá trình kinh doanh.

- Ý thức, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động. Đội ngũ lao động có tinh thần trách nhiệm và ý thức lao động tốt sẽ tạo nên một tập thể vững mạnh, giúp phát huy được sức mạnh của tập thể.

4.2.2. Khả năng tài chính

Khả năng tài chính là yếu tố đặc biệt quan trọng, cần được sự quan tâm, chú ý của các nhà doanh nghiệp. Những yếu kém trong yếu tố này thường gây ra

những khó khăn không nhỏ đối với việc thực hiện mục tiêu của các doanh nghiệp. Các nội dung cần xem xét ở yếu tố này là:

- Khả năng nguồn vốn hiện có so với yêu cầu thực hiện các kế hoạch

- Khả năng huy động vốn từ bên ngoài

- Tình hình phân bổ và sử dụng các nguồn vốn

- Kiểm soát các chi phí

- Dòng tiền thu và chi

- Các quan hệ tài chính trong nội bộ và trong quan hệ với các đơn vị khác

Các nhân tố trên đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh thông qua hoạt động của bộ máy quản trị doanh nghiệp và đội ngũ các cán bộ quản trị.

4.2.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng khoa học công nghệ

Trình độ phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó như “cây đũa thần kỳ” mang đến những phép nhiệm màu cho hiệu quả kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật tốt cùng với khả năng ứng dụng những tiến bộ khoa học hiện đại vào quá trình hoạt động kinh doanh giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí đồng thời nâng cao năng suất lao động.

4.2.4. Trình độ tổ chức quản lý

Trong kinh doanh, nhân tố quản trị kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng. Quản trị doanh nghiệp có vai trò định hướng cho doanh nghiệp một hướng đi đúng trong hoạt động kinh doanh, xác định chiến lược kinh doanh, phát triển doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh, phát triển doanh nghiệp là cơ sở để đạt được hiệu quả hoặc thất bại phi hiệu quả của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

5. Các quan điểm cơ bản về nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

Trong thực tiễn không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả kinh doanh và chính điều này đã làm triệt tiêu những cố gắng, nỗ lực của họ mặc dù ai cũng muốn làm tăng hiệu quả kinh doanh. Như vậy khi đề cập

đến hiệu quả kinh doanh chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.

- Về mặt thời gian: Sự toàn diện của hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xét trong thời kỳ dài, hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả chu kỳ sau.

- Về mặt không gian: Có hiệu quả kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào chỗ hiệu quả của hoạt động kinh tế cụ thể nào đó, có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả kinh tế của cả hệ thống mà nó liên quan tức là giữa các ngành kinh tế này với các ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống, giữa hiệu quả kinh tế với việc thực hiện các nhiệm vụ ngoài kinh tế.

- Về mặt định lượng: Hiệu quả kinh tế phải được thể hiện qua mối tương quan giữa thu chi theo hướng tăng thu giảm chi. Điều này có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa chi phí sản xuất kinh doanh để tạo ra một đơn vị sản phẩm có ích.

- Về mặt định tính: Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả của toàn xã hội. Giành được hiệu quả cao cho doanh nghiệp chưa phải là đủ mà còn đòi hỏi mang lại hiệu quả cho xã hội. Trong nhiều trường hợp, hiệu quả toàn xã hội lại là mặt có tính quyết định khi lựa chọn một giải pháp kinh tế, dù xét về mặt kinh tế nó chưa hoàn toàn được thoả mãn.

Trong bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào khi đánh giá hiệu quả của hoạt động ấy không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả đạt được mà còn đánh giá chất lượng của kết quả ấy. Có như vậy thì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh mới được đánh giá một cách toàn diện hơn.

Cụ thể khi đánh giá hiệu quả kinh doanh chúng ta cần phải quán triệt một số quan điểm trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh như sau:

Thứ nhất: Bảo đảm sự kết hợp hài hoà các loại lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích người lao động, lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài... Quan điểm này đòi hỏi

việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ việc thoả mãn một cách thích đáng nhu cầu của các chủ thể trong mối quan hệ mắt xích phụ thuộc lẫn nhau.

Thứ hai : Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Theo quan điểm này thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải là sự kết hợp hài hoà giữa hiệu quả kinh doanh của các bộ phận trong doanh nghiệp với hiệu quả toàn doanh nghiệp.

Thứ ba: là phải bảo đảm tính thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.

Thứ tư: Đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị, xã hội với nhiệm vụ kinh tế trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh phải xuất phát từ mục tiêu, chiến lược của Đảng và Nhà nước.

Thứ năm: Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào cả mặt hiện vật lẫn giá trị của hàng hoá. Theo quan điểm này đòi hỏi việc tính toán và đánh giá hiệu quả phải đồng thời chú trọng cả hai mặt hiện vật và giá trị.

II. Khái quát về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp

Hoạt động nhập khẩu là một phần rất nhỏ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cũng là một phần của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, bản chất của hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp được xây dựng trên nền tảng là bản chất của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một bộ phận của hoạt động kinh doanh nói chung của doanh nghiệp do vậy trong quá trình tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu khó có thể tách biệt rõ ràng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng của doanh nghiệp.

Về mặt hình thức, hiệu quả nhập khẩu cũng là một đại lượng so sánh giữa kết quả thu đc và chi phí bỏ ra, nghĩa là:


Hiệu quả nhập khẩu =

Kết quả đầu vào



Chi phí đầu ra

Nhưng các khác biệt ở đây chính là kết quả họat động nhập khẩu được thể hiện như thế nào? Chi phí cái là gì và bao nhiêu? Ở đây kết quả của hoạt động nhập khẩu chính là sự chênh lệch giữa chi phí ngoại tệ nhập khẩu và giá trị nội địa của hàng nhập khẩu, còn chi phí nhập khẩu là tổng số các chi phí về hàng hóa đó khi hàng hóa đó đi từ nơi sản xuất đến khi về đến cửa khẩu nước nhập khẩu và sẵn sàng để chuyển giao cho người tiêu thụ trong nước. Chi phí nhập khẩu có vai trò rất quan trọng trong việc xác định hiệu quả tài chính của hoạt động nhập khẩu của một đơn vị. Nếu chi phí này không được tính toán đúng và đủ thì doanh nghiệp luôn có ảo tưởng về kết quả kinh doanh. Nghĩa là bản chất lỗ lại hiểu nhầm là lãi và ngược lại lãi lại tưởng là lỗ. Những ảo tưởng đó sẽ dẫn đến những quan điểm sai lầm trong phương án kinh doanh của doanh nghiệp.

Hiệu quả nhập khẩu là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó liên quan nhiều tới nhiều yếu tố khác nhau và nó phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đó. Do vậy, trong quá trình xem xét đánh giá hiệu quả nhập khẩu cũng cần cần phải nhất quán triệt để các quan điểm sau:

Đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu phải xuất phát từ mục tiêu, chiến lựợc phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước, đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân.

Đảm bảo sự kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và ng lao động. điều này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu không chỉ là nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động nhập khẩu.

Đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong việc nghiên cứu hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Điều này đòi hỏi không những phải xuất phát từ chính sách của

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/05/2022