Tiếp Tục Hoàn Thiện Và Thực Hiện Có Hiệu Quả Chiến Lược Phát Triển Con Người Việt Nam Theo Những Đòi Hỏi Ngày Càng Cao Của Sự Nghiệp Đẩy Mạnh


nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nước Việt Nam giầu mạnh, văn minh. Dân có ấm no, hạnh phúc thì nước mới mạnh, đồng thời đất nước giàu mạnh cũng tức là hướng tới chăm lo cuộc sống tốt đẹp cho toàn thể nhân dân.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY

Với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, với thực tiễn gần 30 năm đổi mới, với thực trạng và định hướng phát triển con người Việt Nam mà chúng tôi đã nêu trên, để thực hiện thành công chiến lược phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, theo chúng tôi, chúng ta cần thực hiện hệ thống các giải pháp sau đây:

4.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển con người Việt Nam theo những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Xây dựng chiến lược phát triển con người toàn diện là một trong những vấn đề hết sức cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xây dựng chiến lược này cần phải xác định rõ mục tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản cho việc xây dựng con người đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc xây dựng chiến lược con người phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, phù hợp với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo mục tiêu chiến lược mà Đảng ta đề ra, chúng ta phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Điều đó cũng có nghĩa là đến khi đó, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta về cơ bản đã thành công, chúng ta phải có một nền công nghiệp hiện đại, phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về lao động, chúng ta phải chuyển được đại bộ phận lao động trong nông nghiệp thành lao động trong công nghiệp và dịch vụ, phải có một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đủ mạnh về số


lượng và chất lượng, có khả năng giải quyết được những vấn đề khoa học và công nghệ mà đất nước đặt ra, phải có một lực lượng công nhân lành nghề đông đảo và có chất lượng cao. Chính vì vậy, chiến lược phát triển con người toàn diện ở Việt Nam phải đề cập đến nhiều mặt, phải có chiến lược về tổ chức, phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch lao động theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phải có chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ và chiến lược xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề. Trên cơ sở chiến lược đó, phải xác định rõ lộ trình và giải pháp thực hiện một cách phù hợp.

Trong những năm qua, vấn đề chiến lược phát triển con người toàn diện đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thường xuyên và trên thực tế, chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, sự phát triển con người Việt Nam hiện nay vẫn còn mang tính tự phát rất lớn và do vậy, nó đã tạo ra rất nhiều bất hợp lý trong phát triển con người Việt Nam, cũng vì thế mà nhiều khi, nhiều nơi, người Việt Nam “bị” phát triển phiến diện. Do đó, hiện nay, vấn đề xây dựng chiến lược phát triển con người toàn diện và việc tổ chức thực hiện chiến lược ấy là một vấn đề hết sức cấp thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chúng ta phải kết hợp chặt chẽ chiến lược phát triển con người toàn diện với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược và các chính sách kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu phát triển con người toàn diện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

4.2.2. Kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần của con người Việt Nam

Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử. Thực hiện chiến lược phát triển con người Việt Nam không thể tách rời công cuộc đổi mới kinh tế

Vấn đề phát triển con người toàn diện Việt Nam hiện nay - 16

- xã hội đang diễn ra. Gần 30 năm đổi mới từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng. Những thành tựu đó không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, mà còn góp phần nâng cao đời


sống vật chất và tinh thần cho quần chúng nhân dân. Song, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cho đến nay, nước ta vẫn còn trong tình trạng chậm phát triển, sự phát triển kinh tế - xã hội chưa thật sự bền vững, đời sống người dân còn nhiều khó khăn.

Để tiếp tục đổi mới nhằm phát triển con người toàn diện đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, theo chúng tôi, trước hết chúng ta phải kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần của con người Việt Nam.

Vấn đề nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người Việt Nam là một nội dung quan trọng trong sự phát triển con người toàn diện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ cần phải “phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất…” [39, tr.79]. Trước mắt, chúng ta cần tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn, đảm bảo nâng cao mức thu nhập bình quân đầu người, nhất là những bộ phận nhân dân có thu nhập thấp. Muốn vậy, chúng ta phải xây dựng nền kinh tế làm sao tạo nhiều việc làm cho người lao động, không ngừng phát triển sản xuất vật chất, nâng cao năng suất lao động kết hợp với việc thực hiện chế độ phân phối hợp lý, thực hiện phân phối phúc lợi xã hội cho những bộ phận nhân dân khó khăn. Nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân là nền tảng vững chắc nhất để nhân dân có điều kiện phát triển toàn diện cả về thể chất, lẫn phát triển về trí tuệ và nâng cao đời sống tinh thần.

Cùng với nâng cao đời sống vật chất, nâng cao đời sống tinh thần, đẩy mạnh quá trình xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng là một trong những giải pháp cơ bản góp phần phát triển con người Việt Nam hiện đại. Xã hội càng hiện đại, văn minh, nhu cầu tinh thần, văn hoá càng đòi hỏi phải được đáp ứng. Bởi văn hoá là cái cấu thành “nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”, đồng thời góp


phần xây dựng con người Việt Nam với đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, trí tuệ tinh thông, đủ sức mạnh tinh thần đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Nhận thức rõ ý nghĩa của việc này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta một lần nữa khẳng định chủ trương:

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,…làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển…xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao [39, tr.75-76].

Thực tiễn công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cho thấy, thực trạng đời sống tinh thần của nhân dân ta tuy có được cải thiện, song vẫn còn nhiều bất cập. Hiện tượng thiếu thông tin, nhất là vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo hầu như chưa được hoà nhập thường xuyên với đời sống văn hoá tinh thần trong cả nước. Về thông tin đại chúng, chúng ta vẫn còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp thời phát hiện và lý giải được những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra,… Do vậy, trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn phát triển kinh tế tri thức, chúng ta cần phải nâng cao hơn nữa việc đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Nâng cao đời sống tinh thần, trước hết chúng ta phải “kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Vệt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại” [39, tr.76].

Quá trình nâng cao đời sống tinh thần, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển con người toàn diện đòi hỏi phải gắn liền với sự nghiệp đẩy mạnh quá trình xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển nhân cách con người. Những giá trị, những chuẩn mực, khuôn mẫu văn hoá của xã hội chính là mảnh đất mầu mỡ, là nguồn nuôi dưỡng thế giới tinh thần cho


con người. Trong văn hóa, văn học, nghệ thuật là bộ phận trọng yếu, đồng thời là yếu tố quan trọng góp phần phát triển con người. Văn học, nghệ thuật có vài trò định hướng phát triển nhân cách con người. Thông qua văn học, nghệ thuật, con người có thể sàng lọc, chọn lựa giữa những giá trị tốt và xấu, tiến bộ và phản tiến bộ. Những giá trị đó sẽ thẩm thấu vào tình cảm, ý chí, niềm tin và hành vi của con người. Vì vậy, chúng ta phải xây dựng và phát triển nền văn học, nghệ thuật phong phú, đa dạng, trong đó có sự kết hợp giữa truyền thống với hiện đại. Phải làm cho những giá trị chân, thiện, mỹ của đời sống con người được chuyển tải qua văn học, nghệ thuật đến đại chúng nhân dân. Tạo điều kiện cho mọi người dân Việt Nam có thể tham gia vào việc sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn học, nghệ thuật góp phần phát triển đời sống tinh thần con người Việt Nam.

Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người. Phát triển văn hóa vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, vừa là mục tiêu của chế độ ta. Bởi vậy, việc giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc và hiện đại hoá nền văn hoá trong điều kiện đổi mới đất nước hiện nay là hết sức quan trọng. “Phát triểt văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng được coi là quốc sách hàng đầu” [143, tr.9], bởi “phát triển văn hóa, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không thể đứng ngoài chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện đại” [143, tr.9]. Muốn đẩy mạnh việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta phải thực hiện đồng thời các biện pháp lớn như Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã ghi rõ: Mở rộng cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa; tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa; nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa…


4.2.3. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính chiến lược trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là việc xây dựng một nền kinh tế đa thành phần, có cơ cấu hợp lý, hiện đại, gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; tạo nên sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong sản xuất, kinh doanh, nâng cao tính tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, phát huy tính chủ động, sáng tạo của con người. Hơn nữa, chính là thông qua cạnh tranh trên thị trường, nó còn giáo dục con người phải luôn luôn sáng tạo ra những mặt hàng mới, đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Đặc biệt, chính thông qua thị trường, người lao động nước ta mới có điều kiện để nâng cao giá trị sức lao động của mình, nâng tầm giá trị lao động của người Việt Nam, nhờ đó cho phép chúng ta tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.

Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi tất cả mọi người phải không ngừng nâng cao trình độ của mình để có thể sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật mới, công nghệ mới, phương pháp quản lý mới; là điều kiện cho người lao động chuyển đổi căn bản thói quen và tác phong lao động lạc hậu, thụ động sang tác phong công nghiệp, chủ động, sáng tạo. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một mặt, với việc ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, hiện đại hóa những khâu then chốt để tạo nền tảng cho toàn bộ nền kinh tế sẽ góp phần nâng cao trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến cho người lao động, góp phần tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Mặt khác, chúng ta mở rộng những ngành công nghiệp truyền thống, thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn sẽ giải quyết một vấn đề lớn là tạo nhiều việc làm


đáp ứng nhu cầu lao động đông đảo ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là biện pháp hiệu quả nhất để tăng năng suất lao động, tạo nền tảng vật chất cho xã hội – cơ sở quan trọng nhất cho việc thực thiện các mục tiêu kinh tế - xã hội và phát triển con người Việt Nam.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chính là từng bước xác lập vị thế làm chủ của nhân dân lao động trong toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh. Song, trong chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, thực hiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, người lao động trong tất cả các lĩnh vực và thành phần kinh tế còn chưa thực sự giữ vai trò làm chủ, nhiều hiện tượng chèn ép người lao động còn diễn ra, một số giới chủ tư bản trong và ngoài nước đã tranh thủ và dùng nhiều biện pháp buộc người lao động làm việc nặng nhọc với đồng lương ít ỏi và điều kiện làm việc khắc nghiệt. Sự cạnh tranh khốc liệt ở trong nước và quốc tế cũng như những mặt trái của kinh tế thị trường, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội và người dân. Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường phải đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Từ những thập niên 80 của thế kỷ XIX trở về trước, chúng ta vẫn thường đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển và với tiến bộ xã hội. Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển chung của xã hội và vì thế, con người cũng được phát triển, có cuộc sống sung túc và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, một con người phát triển toàn diện không chỉ có cuộc sống no đủ về vật chất, mà còn phải có đời sống tinh thần phong phú, có năng lực làm chủ và sáng tạo, được sống trong một môi trường lành mạnh, trong một xã công bằng, dân chủ, văn minh. Xã hội mà ở đó, không có tình trạng áp bức, bóc lột con người. Trên quan điểm nhận thức mới đó, tại Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định:


Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình [32, tr.113].

Với quan điểm này, Đảng ta đã khẳng định phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội phải có nền kinh tế phát triển nhanh và biền vững, chỉ có nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững mới có khả năng huy động các nguồn lực vật chất cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đây là vấn đề phản ánh bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Hiện nay, vấn đề thực hiện công bằng xã hội là một vấn đề đang nổi lên cần tập trung giải quyết. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, đương nhiên, chúng ta phải chấp nhận tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân hóa trong điều kiện tham gia lao động và hưởng thụ giá trị lao động (cả giá trị vật chất lẫn tinh thần). Nhưng ở nước ta, quá trình phân hóa đó diễn ra một cách quá nhanh chóng và khắc nghiệt. Vấn đề dẫn đến mất công bằng xã hội có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, như cơ chế, chính sách không hợp lý, pháp luật thiếu đồng bộ và không nghiêm minh, quản lý của Nhà nước có nhiều sơ hở, v.v.. Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết một cách đồng bộ hàng loạt các giải pháp liên quan đến chính sách, đến pháp luật, đến cơ chế quản lý, trước hết là “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển” [38, tr.101]. Để thực hiện điều đó, chúng ta cần:

Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vị cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương…, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội” [38, tr.101], “tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc” [38, tr.101].

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 21/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí