tấm gương về đức tính lao động cần cù, sinh hoạt giản dị, ăn ở nhân đức tình nghĩa với láng giềng,… cho con cái về sau.
Thân mẫu Nguyễn Quang Bích là một người phụ nữ tần tảo hết lòng với chồng con.
Đức tính tốt từ thân phụ và thân mẫu đã trở thành những định hướng lớn trong tư tưởng của Nguyễn Quang Bích và có ảnh hưởng lớn đến hành động của ông sau này.
Không chỉ thế, góp phần quan trọng vào quá trình hình thành nhân cách để tạo nên sự nghiệp của Nguyễn Quang Bích còn phải kể đến kết quả của sự dạy dỗ bởi các thầy dạy học lúc bấy giờ.
Người thầy khai tâm cho Nguyễn Quang Bích là cụ tú tài Nguyễn Ôn Hòa, một nho sĩ có tiếng người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Nhờ sự ân cần chỉ bảo của người thầy mẫu mực này nên Nguyễn Quang Bích đã sớm phát huy được tư chất thông minh, hiếu học và tinh thần lập chí từ nhỏ. Khi học lên cao ông lại tìm được một người thầy học có tiếng tăm về đức độ, văn tài tiến sĩ Đốc học Doãn Khuê, người xã Song Lãng, huyện Vũ Thư. Người thầy cao quý không chỉ truyền dạy cho Nguyễn Quang Bích tinh thần học tập, nghiên cứu nghiêm túc, coi trong việc tiếp thu những tinh hoa của kho tàng văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới ông về tinh thần yêu nước, về đạo đức trong sáng mang tính truyền thống của dân tộc. Trong “Bài ca đối sánh thi đình” của mình, Nguyễn Quang Bích đã khẳng định: Ông đã hình thành nhân cách con người trí thức của mình trước khi bước vào con đường tấn thân. Sau này, sau những năm tháng kháng chiến ở Tây Bắc với tư cách là thủ lĩnh của nghĩa quân, Nguyễn quang Bích đã hình thành nên nhân cách con người trí tuệ của mình. Trong
ông có sự nhất quán giữa việc học và hành, giữa tư tưởng và hành động, đạt đến sự viên mãn trong các mối quan hệ ứng xử.
Như vậy, nhân cách của Nguyễn Quang Bích được hình thành trong cả một quá trình dài dưới sự tác động của nhiều yếu tố. Với những điều kiện tiền đề thuận lợi kết hợp với sự cố gắng nỗ lực của bản thân tưởng rằng đường công danh sẽ rạng rỡ với ông thế nhưng cũng giống như Trần Tế Xương Nguyễn Quang Bích thi đỗ rất muộn. Năm Mậu Ngọ (1858) lúc đã 27 tuổi ông mới đậu tú tài. Tiếp sau đó, năm Tân Dậu (1861) ông đỗ cử nhân và được bổ làm giáo thụ phủ Trường Khánh (Ninh Bình). Được một năm thì ông cáo quan về quê để tang cha và dạy học.Con đường quan lộ của Nguyễn Quang Bích chỉ thực sự rạng rỡ vào năm 1869 khi ông đỗ nhị giáp tiến sĩ lúc 38 tuổi và được bổ làm tri phủ Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Sau đó, ông lần lượt giữ các chức án sát Sơn Tây, Tế tửu Quốc Tử Giám tại kinh đô Huế, án sát Bình Định. Trong thời gian đó triều đình mở doanh điền ở Hưng Hóa, ông lại được cử làm chánh sứ sơn phòng rồi kiêm luôn chức tuần phủ Hưng Hóa.
Mảnh đất Hưng Hóa cũng là nơi Nguyễn Quang Bích bắt đầu tham gia vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc. Sau khi buộc triều đình Huế kí hàng ước vào ngày 25/8/1883 xác định quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam thì đến tháng 3/1884 thì hầu hết Bắc kì đã lọt vào tay giặc Pháp. Một số căn cứ quan yếu đã mất, chỉ còn Hưng Hóa và thực dân Pháp đang chuẩn bị tấn công để mở rộng phạm vi xâm lược ra cả nước.
Tuần phủ kiêm trấn thủ Hưng Hóa lúc đó là Nguyễn Quang Bích lúc đó đã phải chỉ đạo trực tiếp việc giữ thành. Sau khi thành Hưng Hóa thất thủ ông đã thu thập quân binh dời về Cẩm Khê (Phú thọ) và định cố thủ lâu dài ở đây lặp căn cứ chống Pháp.
Có thể bạn quan tâm!
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập - 1
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập - 2
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập - 4
- Tình Cảm Gắn Bó Chân Thành Với Nhân Dân Lao Động
- Ngư Phong Thi Văn Tập Nhìn Từ Phương Diện Nghệ Thuật
Xem toàn bộ 66 trang tài liệu này.
Nghĩa quân đã tự củng cố lục lượng cùng với nghĩa quân từ nhiều nơi khác đến đã tạo nên một sức mạnh cả về thế và lực. Quân Pháp nhiều lần đem
binh đến đánh hưng đều thất bại trước sự đồng tâm đoàn kết quyết chiến của nghĩa quân nơi đây, đặc biệt là sự lãnh đạo của nhà cầm quyên Nguyễn Quang Bích.
Ngày 13/7/1885 vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả nước đứng dậy chống Pháp cứu nước. Tôn Thất Thuyết thừa mệnh vua xuống dụ khai phục nguyên hàm và thăng chức cho văn thần võ tướng ngoài Bắc. Nguyễn Quang Bích được vua Hàm Nghi sai sứ ra phong Lễ bộ thượng thư sung hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần nước Thuần – Trung cho phép quan văn từ tham tần, quan vò từ đề đốc trở xuống được quyền “Liệu nghi thực dụng” đồng thời ông được ủy viện cầm quốc thư sang triều Thanh cầu viện. Nguyễn Qung Bích đã hoàn thành xuất sắc công việc được giao ông được vua Hàm Nghi ban khen và phụ chinh đại thần Tôn Thất Thuyết làm thơ kỉ niệm.
Vào năm 1886 vua Hàm Nghi lại một lần nữa cử Nguyễn Quang Bích đi Vân Nam, cùng đi với ông có Chu Lăng Thực, tự Thiết Nhai, hiệu Ngọa Hổ người tỉnh Hồ Nam Trung Quốc, người thứ hai là Nguyễn Khê Ông người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, lĩnh chức án sát sứ tỉnh Sơn Tây sung tần tướng quân vụ.
Cũng trong thời gian này từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1886, giặc Pháp hai lần liên tục tấn công căn cứ nhưng không có kết quả. Phong trào kháng Pháp ở nhiều nơi lại nổ ra mạnh mẽ. Giữa lúc này thì Nguyễn Quang Bích từ Trung Quốc về nước và cho nghĩa quân đóng ở hạt Thiên Chấn (châu Văn Chấn). Được sự viện trợ của tổng đốc Vân Quý là Sầm Dục Anh cùng sự góp sức của nhiều nghĩa quân khác, đặc biệt là đồng bào dân tộc miền núi nên thanh thế của nghĩa quân tăng lên rất nhanh. Tất cả các cuộc đấu tranh chống phá của thực dân Pháp đều vô hiệu. Đàn áp không được thực dân Pháp dở chiêu trò dụ dỗ nhưng Nguyễn Quang Bích kiên quyết cự tuyệt thề chết không
hàng. Với lời lẽ ôn hòa mà đanh thép, Nguyễn Quang Bích đã thể hiện rò quan điểm và bản lĩnh của mình trước quân thù, đó cũng chính là ý chí bất khuất của dân tộc Việt Nam bất chấp sức mạnh của quân xâm lược. Đến tháng 10 năm Đinh Hợi (11/1887) do quân Pháp ập đến bất ngờ nên Nguyễn Quang Bích và hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp phải chia tay nhau lánh vào nhà đồng bào Mèo quanh vùng. Khi quân giặc rút lui ông trở về căn cứ thì Nguyễn Văn Giáp đã bị bệnh chết. Vô cùng thương tiếc người đồng chí có khí tiết hào hùng ông đã làm một bài văn tế thống thiết ca tụng công ơn của hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp.
Tháng 3 năm Mậu Tí (4/1888), Pháp tấn công lần hai, do bất ngờ và bị động nên nghĩa quân đã không chống đỡ nổi phải rút về Phù An, sau khi địch rút mới trở về vị trí cũ. Thực dân Pháp lại tiến hành bao vây phong tỏa, cuối cùng Nguyễn Quang Bích dời trụ sở đến khu núi Tôn Sơn, châu Yên Lập.Tuy nhiên đến giai đoạn này thì sức khỏe của ông ngày càng sa sút vì đau ốm liên miên. Tháng 11/1889 Nguyễn Quang Bích truyền lệnh cho tướng sĩ chuẩn bị một cuộc tấn công lớn vào đầu năm thì đến ngày 5/1/1891 ông bị bệnh nặng và mất tại căn cứ của nghĩa quân (mất vào năm 1889 hoặc 1890). Thi hài của ông được binh sĩ trân trọng chôn cất trên ngọn núi Tôn Sơn biểu dương ý chí bất khuất, tinh thần yêu nước của một văn thân đồng thời là tinh thần của cả một dân tộc anh hùng. Nguyễn Quang Bích từ trần, nghĩa quân không có người lãnh đạo nên lần lượt tan rã. Tuy các chiến sĩ như Đề Kiều, đốc ngữ Đề Dị, Đề Thành còn tiếp tục sự nghiệp rạng rỡ của ông làm cho quân Pháp thất điên bát đảo trong nhiều năm nhưng về cơ bản phong trào đã thất bại.
Như vậy hoàn cảnh lịch sử và gia đình đã có tác động rất lớn đến cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Quang Bích nói chung và sự nghiệp thơ văn nói riêng.
1.2.2. Sự nghiệp văn chương
Trong thời gian lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp ở Tây Bắc từ 1885 đến 1889, ông đã sáng tác được một tập thơ văn giàu giá trị đó là Ngư Phong thi văn tập gồm 97 bài thơ chữ Hán phần lớn theo các thể thơ Đường luật ngoài ra ông còn có các bài văn(3 bài văn tế), câu đối(4 bài), liễn điếu viếng các đồng đội tử trận, và thư trả lời quân Pháp với lời lẽ khẳng khái, ý chí quyết hi sinh vì độc lập, dân tộc .
Có thể nói Ngư Phong thi văn tập là tiếng nói chân thành, là tấm lòng yêu nước sắt son của nhà thơ Ngư Phong. Xúc cảm trước quân dân chiến đấu gian khổ, căm hờn với giặc Pháp tham tàn, với lũ Việt gian bán nước và có nhiều lúc rung cảm trước cảnh rừng núi Tây Bắc tươi đẹp nên Nguyễn Quang Bích đã cho ra đời tập thơ giàu giá trị này.
Qua tập thơ, con người Nguyễn Quang Bích hiện lên một cách chân thực nhất, hình ảnh một vị lãnh tụ, một thi sĩ yêu nước hiện lên đậm nét qua từng trang thơ. Đồng thời tập thơ còn miêu tả nhiều nét chân thực về cuộc chống Pháp của nghĩa quân Tây Bắc.
Với giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc Nguyễn Quang Bích đã tái hiện lại cho người đọc không gian và con người nơi núi rừng Tây Bắc. Qua đó ta có thể thấy được hiện thân của một vị lãnh tụ cách mạng hết lòng vì nước vì dân.
Từ đó ta có thể khẳng định Ngư Phong thi văn tập đã làm cho tên tuổi Nguyễn Quang Bích rực sáng trên văn đàn, đặc biệt là trong dòng văn học yêu nước cuối thế kỉ XIX. Tập thơ văn đã góp phần làm cho nền thơ ca dân tộc trở nên phong phú hơn.
1.3. Vị trí thơ văn Nguyễn Quang Bích trong dòng văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX
Là một lãnh tụ của phong trào Cần Vương kháng Pháp Nguyễn Quang Bích được nhắc đến nhiều vơi vai trò, vị trí của một danh nhân lịch sử cùng với những tên tuổi như: Nguyễn Hữu Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Đình Chiểu,…thơ văn của ông chưa thực được tiếp cận và nghiên cứu nhiều.
Có công lớn trong việc giới thiệu nhà thơ Nguyễn Quang Bích với người đọc chính là nhóm tác giả Kiều Hữu Hỷ, Lã Xuân Mai, Nguyễn Xuân Bách, Nguyễn Bỉnh Khôi, Đinh Xuân Lâm với công trình Thơ văn Nguyễn Quang Bích được xuất bản lần đầu vào năm 1961 và được tái bản lại vào năm 1973. Đây là công trình biên soạn, tập hợp khá đầy đủ thơ văn Nguyễn Quang Bích trong đó có 97 bài thơ cùng với một số bài văn tế và thư trả lời quân Pháp. Trong cuốn này Đinh Xuân Lâm đã giới thiệu khá đầy đủ những nét về cuộc đời, con người cũng như sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Quang Bích và đánh giá cao tinh thần yêu nước của ông trong tập Ngư Phong thi văn tập bởi tư tưởng của nó được bắt nguồn từ sâu trong truyền thống vĩ đại không có gì quý hơn độc lập tự do của dân tộc. Trong bài viết của tác giả Bùi Văn Nguyên trong bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam xuất bản năm 1964 đã khẳng định được đúng đắn vị trí của thơ văn Nguyễn Quang Bích trong dòng văn học yêu nước cận đại Việt Nam. Giáo sư cho rằng: “Sự kết hợp giữa nhà yêu nước và tâm hồn thi nhân đã giúp Nguyễn Quang Bích bộc lộ được tâm hồn của một cô thần sống chết vì nước đồng thời ghi lại được những nét chân thật về cuộc kháng chiến chống Pháp của nghĩa quân, về thiên nhiên vùng Tây Bắc Bùi Văn Nguyên trong bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam đã tiếp cận với hình ảnh con người Nguyễn Quang Bích trong thơ. Ông cho rằng đó là con người tự an ủi mình trên bước đường gập ghềnh gian nan, hiểm trở, là người đi
nhiều, thích nói nhiều về nỗi buồn hơn là niềm vui.Trong giai đoạn kháng Pháp người sáng tác thơ văn yêu nước chống Pháp có nhiều, người nào cũng đáng kính phục nhưng người đã truyền lại cho ta hơi sống nóng hổi của một thời đại chống Pháp đã qua thì chỉ có một số ít mà Nguyễn Quang Bích là một trong số đó. Hầu hết những tác giả tìm hiểu về thơ văn Nguyễn Quang Bích chỉ tìm hiểu về tiếng nói yêu nước chứ chưa đi sâu vào giá trị văn chương mà Ngư Phong thi văn tập có được. Năm 1988 nhân việc nhà nước ta công nhận di tích lịch sử phần mộ và từ đương Nguyễn Quang Bích tại quê hương Tiền Hải, Thái Bình đã tổ chức buổi hội thảo khoa học về ông. Cuộc hội thảo đã tập trung nhiều về vấn đề khẳng định vị trí của ông trong tư cách một lãnh tụ Cần Vương còn thơ văn của ông chưa được họi thảo đi sâu. Đến năm 1991 trong lễ kỉ niệm và hội thảo khoa học tròn một trăm năm mất của Nguyễn Quang Bích tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám thì thơ văn của Nguyễn Quang Bích mới được tìm hiểu ở nhiều phương diện.
Nhìn chung qua những bài viết điểm qua bên trên đã cố gắng tìm cách lí giải những đóng góp riêng của Nguyễn Quang Bích so với các nhà văn yêu nước cùng thời với ông. Tuy nhiên tất cả mới là những ý kiến bước đầu về con người và thơ văn Nguyễn Quang Bích. Thế giới nội dung và nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Bích vẫn còn nhiều điều mới mẻ cho đến nay và chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng dù vị trí và đóng góp của thơ văn ông trong nền văn học yêu nước thời chống Pháp là đáng kể.
Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG NGƯ PHONG THI VĂN TẬP CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH
2.1. Ngư phong thi văn tập nhìn từ phương nội dung
2.1.1. Tinh thần yêu nước, chống xâm lược
Là một lãnh tụ xuất sắc trong phong trào Cần Vương, suốt cuộc đời thăng trầm của mình Nguyễn Quang Bích luôn giữ gìn và phấn đấu để trở thành một trí thức chân chính. Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, quàng ách thống trị lên đất nước ta thì Nguyễn Quang Bích quyết theo phe chủ chiến, không đội trời chung với giặc. Ông bước tiếp theo con đường của những tấm gương sáng đi trước như: Phan Văn Nghị, Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu,… Ông đã sống trong những năm tháng đầy khí phách, cùng với nhân dân từ Bắc chí Nam lấy thiện chống ác, lấy cái vinh chống cái nhục,..biểu thị thái độ dứt khoát kháng chiến giữ nước đến cùng. Nguyễn Quang Bích lên án gay gắt những kẻ mang tri thức mà làm hại đến non sông xã tắc, chà đạp lên chân lí và chính nghĩa, vạch mặt bè lũ bên ngoài giả cách ở ẩn giữ mình còn bên trong thì giao thông với giặc cướp nước để tiền đầy túi: “Hiện nay ở trên đời, biết bao nhiêu người tham lam đắm đuối, chạy vạy luồn cúi dưới lũ hôi tanh để kiếm cơm áo; lại có người bên ngoài thời giả cách lùi bước, ẩn mình, mà bên trong thời bí mật cùng quân giặc giao thông để kiếm cho đầy túi.” ( Văn tế tán tương Nguyễn Khê Ông).
Ở Nguyễn Quang Bích cũng như nhiều nhà Nho yêu nước khác tình yêu đất nước là một điều rất đỗi thiêng liêng, nó được hình thành không chỉ từ trong nhận thức mà còn được xác định bởi tinh thần trách nhiệm của bản thân. Với ông tinh thần yêu nước đã trở thành trách nhiệm trong cả cuộc đời của mình.