Nội Dung Thực Hiện Hoạt Động Bảo Vệ Và Phát Huy Giá Trị Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể

97

nhân, người thực hành có vị trí quan trọng hàng đầu. Hơn hết, họ là người được kế thừa, có nhiệm vụ gìn giữ, thực hành và trao truyền lại cho thế hệ mai sau. Di sản văn hóa phi vật thể tồn tại phụ thuộc toàn bộ vào nghệ nhân, người thực hành và họ được ví như những “báu vật nhân văn sống”, “bảo tàng sống”, “kho tàng di sản văn hóa sống” mà không thể có một hình thức vật chất nào thay thế được. Việc nhận diện các nghệ nhân, người thực hành di sản văn hóa phi vật thể với tư cách những người đang gìn giữ, bảo lưu, trao truyền những giá trị văn hóa là hồn cốt văn hóa của cộng đồng, dân tộc là một cách quan tâm, hỗ trợ để họ có cơ hội đóng góp vào công cuộc bảo vệ bản sắc dân tộc và góp phần củng cố, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của cộng đồng, của nghệ nhân hoạt động trong các lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể được điều chỉnh. Hiện chưa có giải thích chính thức về “Nghệ nhân” trong văn bản quy phạm pháp luật. Vì thế, việc giải thích từ ngữ “Nghệ nhân” là cần thiết để bổ sung vào Điều 4 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009.

Quy định chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân tại điều 26 Luật Di sản văn hóa năm 2001 (được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 8 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009) quy định chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, gồm: a) Tặng, truy tặng Huân chương, danh hiệu vinh dự nhà nước và thực hiện các hình thức tôn vinh khác; b) Tạo điều kiện và hỗ trợ kinh phí cho hoạt động sáng tạo, trình diễn, trưng bày, giới thiệu sản phẩm của nghệ nhân; c) Trợ cấp sinh hoạt hằng tháng và ưu đãi khác đối với nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, giao Chính phủ ban hành chính sách đãi ngộ với nghệ nhân. Qua đây có thể thấy một số vấn đề bất cập sau: Có ba hình thức tôn vinh theo quy định tại điểm a: “tặng Huân chương, danh hiệu vinh dự nhà nước và thực hiện các hình thức tôn vinh khác”. Tuy nhiên, đến nay mới thực hiện chủ yếu ở nội dung về “tặng danh hiệu vinh dự nhà nước” thông qua việc Chính phủ ban hành hai Nghị định. Nội dung “tặng Huân chương” “thực hiện các hình thức tôn vinh khác” còn chưa thực hiện được trong thực tế. Quy định tại điểm b: “Tạo điều kiện và hỗ trợ kinh phí cho hoạt động sáng tạo, trình diễn, trưng bày, giới thiệu sản phẩm của nghệ nhân”: Mặc dù đã được thực hiện qua một số chương trình, hoạt động cụ thể thuộc các hoạt động quản lý nhà nước nói chung về di sản văn hóa được triển khai từ trước khi ban hành Luật Di sản văn hóa đến nay, ví dụ như Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa và sau này là Chương trình phát triển văn hóa,… nhưng gặp phải hạn chế là nó chỉ dừng lại ở “Chương trình” theo giai đoạn và có xu hướng giảm dần mà chưa tạo ra được một chính sách cụ thể, lâu dài. Tại điểm c, “Trợ cấp sinh hoạt hằng tháng và ưu đãi khác đối với nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn”, có ba vấn đề đặt ra:

Một là, việc trợ cấp sinh hoạt hằng tháng và ưu đãi khác chỉ dành cho các nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước gồm Nghệ nhân nhân dân và

98

Nghệ nhân ưu tú; Hai là, chỉ dành cho những cá nhân được tặng danh hiệu vinh dự nhà nước nhưng có thu nhập thấp và hoàn cảnh khó khăn; Ba là, chính sách ở nội dung được tiếp cận từ “chính sách an sinh xã hội”, “hỗ trợ hộ nghèo”107 chứ không phải là chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

Thực tiễn triển khai Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015, tại hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước đã phổ biến, quán triệt nội dung văn bản và tổ chức rà soát, đánh giá hiện trạng đời sống kinh tế theo hướng dẫn của Chính phủ, nhưng đa số các Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú không thuộc diện và không nhận được hỗ trợ do không đạt được tất cả các tiêu chí (về tuổi tác, tình trạng sức khỏe, điều kiện người phụng dưỡng, thu nhập bình quân) quy định tại Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015. Trong khi đó, thách thức lớn nhất mà hầu hết các di sản văn hóa phi vật thể đều phải đối diện, đó là giới trẻ hiện vẫn chưa cảm nhận hết giá trị của di sản do bị ảnh hưởng của các trào lưu mới nên ít tìm thấy sự say mê để theo học, thực hành hay thậm chí chỉ để thưởng thức, hưởng thụ các giá trị văn hóa do cha ông sáng tạo và trao truyền lại. Vì thế, thế hệ các nghệ nhân cao tuổi ngày một già yếu và mất đi mà chưa tìm được lớp người kế cận, chưa kịp truyền thụ cho các học trò, đặc biệt là trao truyền các “ngón nghề”, bí quyết trong việc ứng tác (Nghệ thuật Đờn ca tài tử, Dân ca Quan họ, Bài Chòi…), điều chỉnh nhạc cụ (Cồng chiêng Tây Nguyên). Chính quyền nhiều nơi lại chưa thực sự tạo điều kiện về không gian và cơ sở vật chất cho các nghệ nhân truyền dạy cũng như chưa có các hình thức khuyến khích thế hệ trẻ theo học. Do điều kiện của từng địa phương còn hạn chế nên chưa có chính sách đãi ngộ mức độ cao đối với nghệ nhân để nghệ nhân thực sự yên tâm thực hành nghề.

Việc thực hiện chính sách đối với nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam đang tập trung chủ yếu vào việc vinh danh thông qua các danh hiệu, cụ thể là danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú, Nghệ nhân dân gian,… Các danh hiệu này chịu sự đều chỉnh của Luật Thi đua, Khen thưởng và các chính sách cũng đang chỉ tập trung vào nghệ nhân đã có danh hiệu. Không những thế, các chính sách hỗ trợ đi kèm theo đó lại đang được thực hiện theo “công thức” áp dụng cho “hộ nghèo”. Tới nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đã triển khai công tác phổ biến, quán triệt nội dung văn bản và tổ chức rà soát, đánh giá hiện trạng đời sống kinh tế theo hướng dẫn của Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015. Nhưng đa số các Nghệ nhân ưu tú, Nghệ nhân nhân dân không thuộc diện được hỗ trợ do không đạt được các tiêu chuẩn “hộ nghèo” để được nhận theo quy định tại Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015.


107 Chính phủ (2015), Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 quy định về việc hỗ trợ đối với nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

99

- Đội ngũ cán bộ thực hiện chức năng và nhiệm vụ quản lý di sản văn hóa phi vật thể

Pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam - 14

Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý liên quan đến di sản văn hóa phi vật thể ở các cấp cho thấy cấp tỉnh có phòng chuyên trách trong khi đó ở cấp huyện và xã chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm. Tại các tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành lập bộ phận chuyên trách thực hiện quản lý di sản văn hóa phi vật thể là Phòng quản lý di sản. Trong khi đó, tại các tỉnh chưa có phòng chuyên trách, nội dung quản lý về di sản được giao cho Phòng Quản lý văn hóa hoặc giao Ban quản lý di tích, hoặc Bảo tàng tỉnh. Tại cấp huyện, đã tổ chức cán bộ kiêm nhiệm phụ trách quản lý mảng di sản văn hóa. Tại cấp xã, phường bố trí cán bộ văn hóa xã phụ trách vấn đề về di sản văn hóa. Đối với các địa phương có di sản văn hóa phi vật thể, cơ cấu tổ chức cán bộ với mật độ dày hơn. Ví dụ lại huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc cơ cấu một cán bộ kiêm nhiệm nội dung về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ quản lý di sản, di sản văn hóa phi vật thể ở các địa phương cho thấy cán bộ phụ trách có được đào tạo theo đúng chuyên ngành hoặc được đào tạo có chuyên ngành gần với chuyên ngành công tác. Công tác đào tạo cán bộ, trên địa bàn cả nước có nhiều cơ sở đào tạo cán bộ chuyên ngành cho lĩnh vực văn hóa nói chung trong đó có mảng về di sản ở cả cấp Trung ương và địa phương. Tại một số tỉnh, thành có trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật, cao đẳng phát thanh truyền hình cũng đào tạo các cán bộ chuyên môn cho lĩnh vực này. Bên cạnh đó, cán bộ công tác trong lĩnh vực quản lý di sản văn hóa được tham gia các lớp tập huấn, phổ biến kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cũng như hoạt động tác nghiệp về di sản văn hóa phi vật thể.

Các vấn đề bất cập đối với chủ thể là cán bộ quản lý nhà nước về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể là còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn. Nhân lực trực tiếp phụ trách về di sản văn hóa phi vật thể tại cấp xã, cấp huyện- những đơn vị cơ sở của di sản văn hóa phi vật thể thì chủ yếu là nhân lực làm công tác kiêm nhiệm. Mặc dù các cán bộ này có được tham gia nhiều lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ nhưng trong nhiều trường hợp thiếu những kiến thức, kỹ năng quản lý, bảo vệ di sản. Hơn thế nữa chế độ đãi ngộ đối với cán bộ thực hiện nhiệm vụ trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể theo chế độ tiền công và tiền lương chung của cả nước, chưa có chế độ phụ cấp thêm. Do đó cán bộ thực hiện không tập trung được nguồn lực cho hoạt động liên quan đến bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương.

- Các chủ thể khác tham gia vào bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

Các đơn vị nghiên cứu thực hiện đúng chức năng, nhiệm của mình trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, di sản và xuất bản nhiều công trình nghiên cứu là các sách,

100

báo, tạp chí và công bố sản phẩm thông qua các hội thảo, tọa đàm khoa học. Một số đơn vị có nhiều công trình như: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Viện nghiên cứu Văn hóa, Viện Hán - Nôm... Các công trình nghiên cứu về các giá trị văn hóa, giá trị di sản văn hóa phi vật thể, các di sản văn hóa phi vật thể. Trong đó, có nhiều công trình nghiên cứu nhằm phục dựng, khôi phục các lễ hội, phục chế trang phục, phục chế các công cụ. Ví dụ năm 2008, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đã phục chế nhiều trang phục sử dụng cho lễ tế Nam Giao và lẽ tế Xã Tắc108. Nhiều hội thảo lớn đã được tổ chức như: “Giá trị văn hóa của các nhạc cụ gò bằng đồng của Việt Nam và các nước Đông Nam Á” (2005); “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội Việt Nam đương đại (nghiên cứu trường hợp thờ cúng Hùng Vương” (2011); “Áo dài Việt Nam: nhận diện, tập quán, giá trị và bản sắc”(2020). Các hoạt động này đã tập hợp các nhà nghiên cứu trình bày các vấn đề cụ thể trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

- Phối hợp và hợp tác của các chủ thể trong nước

Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm trong quản lý di sản đã chủ động hợp tác giữa các bên trong kiểm kê, lập hồ sơ, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Hợp tác cũng được tiến hành giữa các bên liên quan như nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp, cộng đồng địa phương để phát huy và khai thác giá trị di sản trong mục tiêu kinh tế. Một số địa phương triển khai các dự án về di sản văn hóa phi vật thể với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm kiểm kê, xây dựng các mô hình kết hợp di sản và du lịch. Các dự án đã thúc đẩy các bên tham gia cùng hợp tác để triển khai. Thông qua đó, nhận thức của các bên liên quan về di sản văn hóa phi vật thể cũng được nâng cao. Đây là yếu tố quan trọng trong tổ chức các hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

Thực tế cho thấy các di sản văn hóa ở Danh mục của UNESCO có nhiều hoạt động hợp tác và có nguồn vốn lớn đầu tư cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Ở các địa phương có di sản văn hóa phi vật thể ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đã chủ động triển khai các đề án bảo tồn. Một số tỉnh có dự án như: Bắc Kạn phê duyệt dự án "Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2018-2020"109; Phú Thọ có đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ giai đoạn 2013-2020"110; Quảng Trị, có đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nghệ thuật Bài Chòi


108 Từ Thị Loan (2014), “Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế “10 năm thực hiện công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO: Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai”. Nxb Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội.

109ttps://backan.gov.vn/Pages/thong-tin-chi-dao-dieu-hanh-264/van-ban-chi-dao-dieu-hanh-265/

phe-duyet-du-an-bao-ve-va-phc-6e947bf044641992.aspx, truy cập ngày 19/11/2019.

110ttps://luatminhkhue.vn/quyet-dinh-2058-qd-ttg-nam-2013-phe-duyet-de-an-bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-di-san-van-hoa

-phi-vat-the-can-bao-ve-khan-cap-cua-nhan-loai---hat-xoan-phu-tho--giai-doan-2013-2020--do-thu-tuong-chinh-phu.aspx, truy cập ngày 19/11/2019.

101

ở trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2018-2023"111; Thừa Thiên - Huế có đề án về bảo vệ và phát huy giá trị di sản: nghệ thuật ca Huế giai đoạn 2017-2020, nghệ thuật Bài Chòi giai đoạn 2019-2023112

Không chỉ thế, ở hầu khắp các tỉnh, thành đều tổ chức các đề án, kế hoạch cụ thể của địa phương nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Ở một số tỉnh khác không có di sản văn hóa phi vật thể thuộc Danh mục đại diện di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cũng xây dựng dự án cụ thể nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể quốc gia trên địa bàn tỉnh ví dụ như Sơn La xây dựng Kế hoạch cho giai đoạn 2020-2023113, Lào Cai xây dựng Dự án cho giai đoạn 2017-2020114, Tây Ninh xây dựng cho giai đoạn 2019-2020 tầm nhìn 2025115, Bắc Kạn xây dựng cho giai đoạn 2018-2020116; Kiên Giang117 nhằm nâng cao năng lực, giúp bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh và di sản văn hóa phi vật thể gắn liền với di tích trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 2016-2020.

Thực trạng công tác phối hợp giữa các bên trong quản lý và tổ chức lễ hội có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Cụ thể phần lễ của lễ hội được tổ chức trang nghiêm, tiết kiệm. Phần hội được tổ chức có quy củ đảm bảo an toàn, các hoạt động văn hóa thể thao và trò chơi dân gian được tổ chức sôi động, thu hút được sự quan tâm của du khách. Các lễ hội có tập tục mang yếu tố bạo lực, không phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay dần được loại bỏ, chuyển đổi hình thức tổ chức phù hợp như: lễ hội Ném Thượng (Bắc Ninh) năm thứ ba không tổ chức chém lợn giữa sân đình; Hội Phết đình Đông Lai, xã Bàn Giản (Vĩnh Phúc), Hội Phết Hiền quan (Tam Nông, Phú Thọ) đã thay đổi hình thức tổ chức mới, chia đội và giới hạn khu vực chơi bước đầu ngăn chặn một phần những hành động bạo lực thái quá bảo đảm cho hoạt động lễ hội diễn ra an toàn; Lễ hội Đền Sóc (xã Phù Ninh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) năm đầu tiên thay đổi hình thức cướp lộc, không xuất hiện cảnh tranh giành cướp giò hoa tre; Hội chọi trâu (xã Phù Ninh, huyện Phù Linh, tỉnh Phú Thọ) được tổ chức đúng hồ sơ đã được phục dựng và cấp phép, không giao cho các


111https://thuvienphapluat.vn/van-banVan-hoa-Xa-hoi-Quyet-dinh-1899-QD-UBND-2018-phat-huy-gia-tri-Di-san-van-ho

a-phi-vat-the-Bai-Choi-Quang-Tri-396429.aspx, truy cập ngày 19/11/2019.

112 Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2018), Quyết định số 2706/QĐ-UBND năm 2018 về phê duyệt Đề án bảo vệ và phát huy giá trị di sản nghệ thuật Bài Chòi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2019-2023.

113 Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2019), Quyết định số 2459/QĐ-UBND ngày 02/10/2019 về Kế hoạch Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia trên địa bàn tỉnh Sơn La giai đoạn 2020-2023.

114 Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai (2017), Quyết định số 1588/QĐ-UBND ngày 09/05/2017 phê duyệt Dự án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia trên địa bàn tỉnh Lào Cai giai đoạn 2017-2020”.

115 Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh (2019), Quyết định số 134/QĐ-UBND về Kế hoạch bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia trên địa bàn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2019-2020, định hướng đến 2025.

116 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn (2018), Quyết định số 1515/QĐ-UBND ngày 10/09/2018 về phê duyệt Dự án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ở tỉnh Bắc Kạn, giai đoạn 2018-2020”.

117 Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2017), Kế hoạch 96/KH-UBND ngày 27/06/2017 bảo vệ, tôn tạo, phát huy di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh và di sản văn hóa phi vật thể gắn liền với di tích trên địa bàn tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2016-2020.

102

doanh nghiệp, cá nhân tổ chức chọi trâu. Lễ hội tổ chức không bán vé, thu tiền tham dự lễ hội...Điều này do có sự phối hợp giữa bên quản lý di tích, bộ phận phụ trách quản lý di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn và sự tham gia của Công an chịu trách nhiệm giám sát việc thực thi. Bên cạnh đó là việc phối hợp tốt giữa bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa của bộ phận phụ trách văn hóa và tăng cường giá trị du lịch của bộ phận phụ trách du lịch. Kết hợp tốt các bên liên quan không chỉ làm cho di sản văn hóa phi vật thể sống trong cộng đồng mà nhờ đó cộng đồng cũng có thể tồn tại nhờ việc duy trì, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của chính họ.

- Chủ thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc hợp tác về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

Chủ thể là các tổ chức, cá nhân nước ngoài có vai trò quan trọng trong hợp tác quốc tế vì tạo nguồn kinh phí cho nghiên cứu, triển khai các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng. Đối với nhiều chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh, nguồn kinh phí thấp thiếu nguồn lực tài chính cho việc đầu tư cho các hoạt động này nên hợp tác với chủ thể nước ngoài là rất cần thiết. Các tỉnh đã phối hợp các các quỹ tài trợ trên thế giới để nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật thể. Đắc Nông triển khai dự án Bảo tồn Không gian văn hóa cồng chiêng do UNESCO tài trợ (2007-2011) với kinh phí gần 1,2 tỷ đồng. Nguồn hỗ trợ này có ý nghĩa quan trọng trọng việc triển khai các hoạt động nhằm phục hồi, gìn giữ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể này trong cộng đồng. Các hoạt động bao gồm như: Tập huấn về lập danh mục và đánh giá hiện trạng văn hóa cồng chiêng; điều tra phỏng vấn nghệ nhân và những người biểu diễn lâu năm; tổ chức các câu lạc bộ cồng chiêng; Tập huấn phương pháp tổ chức quản lý hoạt động câu lạc bộ cồng chiêng; nghiên cứu khôi phục một số nghi lễ và lễ hội có sử dụng cồng chiêng; in ấn các ấn phẩm giới thiệu và quảng bá di sản; tổ chức giảng bài giới thiệu di sản ở cấp tiểu học và trung học; lập hồ sơ xây dựng buôn cổ truyền thống118.

3.3.2. Nội dung thực hiện hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

Các nội dung chính trong thực thi các quy định pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các nội dung trong các hoạt động sau: Kiểm kê và xếp hạng di sản văn hóa phi vật thể; Lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể; Quy hoạch và khoanh vùng di sản văn hóa phi vật thể; Công tác bảo quản, tôn tạo, phục dựng di sản văn hóa phi vật thể.

- Thực thi về kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể

- Nội dung kiểm kê lập hồ sơ

Sau khi Luật Di sản văn hóa ra đời, nhất là sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một


118 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Nông (2019), Báo cáo kết quả thực hiện công tác bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và công tác phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.

103

số điểm của Luật Di sản văn hoá có hiệu lực đã tạo điều kiện cho các bên thực hiện nhiệm vụ trong công tác quản lý và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Sau khi Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/06/2010 đã quy định chi tiết về kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia thì công tác kiểm kê đã được thực hiện tại các địa phương. Theo Thông tư này, nội dung kiểm kê bao gồm một số các nội dung như sau: đối tượng kiểm kê; nội dung kiểm kê; phương pháp kiểm kê; quy trình tổ chức kiểm kê; hồ sơ kiểm kê; báo cáo và công bố kết quả kiểm kê. Vai trò, trách nhiệm của các chủ thể có liên quan đến công tác kiểm kê được quy định tại Điều 3, Thông tư số 04/2010/T-BVHTTDL ngày 30/06/2010. Cụ thể các bên liên quan gồm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; và các bên khác (tổ chức và cá nhân khác tạo điều kiện cho công tác kiểm kê, đưa di sản văn hóa phi vật thể vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia).

Nội dung lập hồ sơ khoa học và thẩm định hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được quy định gồm các nội dung: tiêu chí lựa chọn di sản văn hóa phi vật thể để lập hồ sơ khoa học; trình tự, thủ tục lập và gửi hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đề nghị đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; và thẩm định Hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể.

Hầu hết các địa bàn tỉnh trên khắp cả nước đã tiến hành các hoạt động kiểm tra, nhận dạng, phân loại, kiểm kê và thống kê lại di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn. Các hoạt động kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể được tiến hành bao gồm: điều tra, sưu tầm, thu thập, ghi chép, thống kê để nhận diện tất cả các loại hình di sản văn hóa phi vật thể có mặt trên địa bàn. Công tác khảo sát, kiểm kê di sản văn hóa cho thấy sự thay đổi về số lượng làng nghề một cách báo động. Ví dụ, điều tra làng nghề thủ công ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2011-2012 cho thấy đa số các làng nghề hoạt động còn gặp một số khó khăn về công nhận làng nghề và làng nghề truyền thống, cơ chế - chính sách, thị trường tiêu thụ sản phẩm, trình độ quản lý chưa cao, hệ thống mẫu mã kiểu dáng và bao bì sản phẩm chưa đổi mới, làng nghề mang đậm nét văn hóa truyền thống nhưng không có khả năng phát triển độc lập, số lượng giảm đáng kể sau 10 năm, từ 65 làng nghề năm 2002 xuống còn 16 làng nghề vào năm 2012119.

Lập hồ sơ khoa học của di sản văn hóa phi vật thể được thực hiện trên cơ sở của các cuộc điều tra di sản văn hóa tiến hành trên địa bàn tỉnh. Các quy định về lập hồ sơ khoa học khá chặt chẽ, đảm bảo việc thực hiện việc lập hồ sơ chặt chẽ. Lập hồ sơ khoa học đi song song với quá trình điều tra. Xây dựng hồ sơ khoa học rất quan


119 Đặng Kiệt (2013), “Bảo tồn và phát triển làng nghề mang đậm nét văn hóa truyền thống trên địa thành phố Hồ Chí Minh”, http://www.sonongnghiep.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/Lists/Posts/Post.aspx?List=f73cebc3%2D9669%2D400e%2Db5f d%2D9e63a89949f0&ID=2735, truy cập ngày 01/8/2021

104

trọng cho việc quản lý di sản văn hóa phi vật thể, đề nghị ghi danh và Danh sách đại diện di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, cũng như sử dụng cho quảng bá du lịch.

- Một số vấn đề bất cập

Kiểm kê và lập hồ sơ khoa học là hai nội dung song hành, hồ sơ khoa học hoàn thiện và đầy đủ dựa trên những cuộc điều tra có chất lượng được tổ chức với sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan. Trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể thì việc lưu trữ, hệ thống hóa các hồ sơ khoa học từ việc kiểm kê là hết sức quan trọng. Vấn đề này đặt ra yêu cầu cho việc xây dựng ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể để quản lý di sản văn hóa hiệu quả. Không chỉ xây dựng ngân hàng dữ liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu, bảo tồn di sản mà hoàn toàn có thể phát triển thành dịch vụ khai thác dữ liệu văn hóa cho người dùng. Điều này sẽ giúp các giá trị di sản văn hóa phi vật thể sống bền vững trong cộng đồng và đổi mới theo hướng hiện đại.

Thực trạng thực thi công tác kiểm kê và lập hồ sơ khoa học cho thấy một số điểm còn hạn chế. Đã có tiêu chí nhưng vẫn mơ hồ chưa rò vấn đề, chưa đo lường được khái niệm. Tiêu chuẩn không rò ràng dẫn đến khó cho việc thực hiện nội dung này ở các cấp. Về các bên tham gia kiểm kê Thông tư số 04/2010/TT-VHTTDL ngày 30/06/2010 quy định Thành viên ban kiểm kê gồm đại diện của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã; Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn; chủ thể văn hóa, tổ chức và cá nhân có liên quan, do lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch làm trưởng ban. Các đối tượng này đã bao phủ được cơ quan quản lý hành chính nhà nước, cơ quan nhà nước về di sản, cộng đồng chủ thể văn hóa. Tuy nhiên, vai trò của chuyên gia, nhà nghiên cứu không được đề cập đến. Trong khi đó, đây là một chủ thể hết sức quan trọng để có thể tổ chức hiệu quả và tiến hành lập hồ sơ đầy đủ. Thực tế đã cho thấy, ở một số tỉnh, đã phải tiến hành các mô hình liên kết với các bên có liên quan khác để đánh giá và nhận định được giá trị của các di sản văn hóa trong cộng đồng.

Trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của cán bộ tham gia kiểm kê còn hạn chế, nhất là cán bộ tại cơ sở. Mặc dù có đã có chương trình tập huấn nghiệp vụ đến các địa phương và các cấp, các ngành. Tuy nhiên do việc đào tạo không thường xuyên và cán bộ phải thực hiện kiêm nhiệm nên không có hiểu biết sâu sắc về vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

Thực tế công tác kiểm kê cũng cho thấy nhiều trường hợp các tư liệu bị thất lạc hay do cá nhân nắm giữ các phương thức, tri thức địa phương vì lý do tài chính mà không đầu tư được thời gian, chi phí cho việc lưu giữ các giá trị di sản. Ví dụ trường hợp một số cá nhân vì điều kiện kinh tế hộ gia đình nên không có thời gian tìm lại những điệu hát cho việc phục dựng bản nhạc. Hay cũng vì lý do kinh tế mà một số nghệ nhân lành nghề trong làm tranh Đông Hồ chuyển sang làm nghề hàng

Ngày đăng: 10/06/2022