Đảm Bảo Tính Thống Nhất Giữa Các Quy Luật Của Kinh Tế Thị Trường Với Tính “Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”


sẽ có thế mạnh trong tư vấn giúp đỡ xây dựng pháp luật và chính sách, trong đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản trị kinh doanh, khoa học – công nghệ, về hỗ trợ các nhà sản xuất thực hiện quy trình sản xuất kinh doanh theo các tiêu chuẩn quốc tế cũng như tiêu chuẩn quốc gia do một số nước phát triển đưa ra,… Tuy nhiên, học tập nước ngoài không có nghĩa là rập khuôn máy móc và cứng nhắc. Thể chế và luật pháp của Việt Nam chỉ thực sự có hiệu lực, hiệu quả khi nó có tính thực tiễn cao, thể hiện được nguyện vọng của đông đảo nhân dân và phù hợp với đời sống kinh tế của đất nước.

Chúng ta không chỉ chấp nhận KTTT như một thứ công nghệ - kỹ thuật thuần túy, cũng không phải một phương thức đơn thuần tạo ra của cải và sự giàu có hay thủ đoạn làm tăng lợi nhuận cho nhà tư bản, mà phải biết chủ động hướng KTTT phục vụ cho nâng cao đời sống nhân dân, sự phồn vinh và hạnh phúc trong xã hội. Điều đó thể hiện qua việc can thiệp của Nhà nước và toàn xã hội nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của KTTT (chỉ chạy theo lợi nhuận đơn thuần, phân hóa giàu nghèo cao, ít quan tâm đến giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường).

4.2.2. Đảm bảo tính thống nhất giữa các quy luật của kinh tế thị trường với tính “định hướng xã hội chủ nghĩa

Trong quá trình hiện thực hóa nền KTTT định hướng XHCN vào thực tiễn, không phải lúc nào giữa các quy luật của KTTT với tính đặc thù định hướng XHCN cũng được giải quyết tốt. Trong quản lý nền KTTT định hướng XHCN, nhiều đòi hỏi khách quan từ các quy luật kinh tế của KTTT chưa được giải quyết thỏa đáng và mặt khác, nhiều vấn đề phản ánh bản chất và đặc trưng cơ bản của tính định hướng XHCN trong phát triển KTTT cũng chưa được coi trọng đúng mức, trong đó có việc luận giải một số đặc trưng còn gây nhiều tranh cãi. Trong chủ trương của Đảng, đôi khi nhấn mạnh quá đến việc đảm bảo tính định hướng XHCN mà không đáp ứng được các yêu cầu của các quy luật khách quan trong nền KTTT hoặc ngược lại chỉ đơn thuần coi trọng thị trường, chạy theo các mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà không chú trọng đến các mục tiêu xã hội và phát triển con người. Trong đó có mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước và thị trường. Thị trường là phương tiện và căn cứ quan trọng nhất trong quyết định phân bổ và sử dụng nguồn lực, cũng như giải


phóng sức sản xuất. Nhà nước tôn trọng các quy luật khác quan của KTTT, hạn chế sự can thiệp quá mức vào thị trường làm méo mó môi trường cạnh tranh.

Mô hình KTTT định hướng XHCN là một thể thống nhất giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Khi Việt Nam xây dựng nền KTTT định hướng XHCN cần phải kiên trì tuân thủ nguyên tắc, quy luật phổ quát của nền KTTT hiện đại. Đó là cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch (chống độc quyền, trừ độc quyền tự nhiên cần có sự kiểm soát chặt chẽ); giá cả hàng hóa được điều tiết theo cơ chế thị trường, theo quy luật cung – cầu; nguồn lực cần được phân bổ theo cơ chế thị trường; nền kinh tế phải hội nhập sâu rộng với kinh tế toàn cầu trong quá trình TCH; phát triển đồng bộ và đầy đủ các yếu tố của thị trường.

Mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN cần phải được giải quyết một cách hài hòa, hợp lý. Trong đó, nguyên tắc và bản chất của chế độ XHCN được biểu hiện là mọi chủ trương của Đảng cần phải được hoạch định và thực thi trên cơ sở lập trường lợi ích đa số nhân dân lao động, lấy con người làm trung tâm, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển. Tính định hướng XHCN cần được hiểu là định hướng về mặt chính trị của thể chế nhà nước quá độ lên CNXH, là mục tiêu cần hướng tới của nền kinh tế, của đất nước trong dài hạn. Trong ngắn hạn, vẫn cần phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ.

4.2.3. Xây dựng nền kinh tế thị trường dựa trên quan điểm vì con người, đem lại lợi ích cho nhân dân, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.

Từ thực tiễn xây dựng nền KTTT định hướng XHCN đã cho thấy: Bên cạnh việc quan tâm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần tiếp tục khẳng định mục tiêu phát triển kinh tế là để phục vụ con người, để con người phát triển toàn diện. Các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cần đặt con người vào mục tiêu phát triển trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Điều này vừa thể hiện đúng quy luật của phát triển, vừa thể hiện bản chất của xã hội ta là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2016 - 19

Nhân dân cần được hưởng lợi từ những thành tựu phát triển chung của nền kinh tế, nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc cùng tham gia phát triển kinh tế. Cần đoạn tuyệt dứt khoát với tư duy cũ về CNXH (mô hình xô viết) lấy công hữu, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể làm nền tảng, DNNN là nòng cốt mà không tính đến điều kiện và hiệu quả thực tế.

Trong tương lai, sở hữu công cộng sẽ là nền tảng của CNXH; nhưng về nguồn gốc và bản chất, chế độ sở hữu ấy phải là kết quả rất cao của sự phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời nó phải là sự phủ định biện chứng của sở hữu tư nhân.

Các nguồn lực nhà nước, vốn đầu tư phải được phân bố rộng rãi trong nhân dân và thuộc sở hữu riêng của rất nhiều người. Việc phân bổ các nguồn lực đó phải được tiến hành theo nguyên tắc thị trường, công bằng và minh bạch; dựa trên điều đó thành phần kinh tế tư nhân sẽ có điều kiện phát triển. Xét về bản chất xã hội, kinh tế tư nhân tức là kinh tế của người dân, nhân dân có giàu có thì đất nước mới hùng mạnh và thực hiện được các mục tiêu nhà nước đề ra.

Để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nâng cao mức sống cho người dân ở các vùng còn khó khăn. Đảng cần có những giải pháp hữu hiệu để tăng cường đầu tư nguồn lực nhà nước cũng như có chính sách thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, vùng có kết cấu hạ tầng kỹ thuật yếu kém, nhưng họ vẫn thu được lợi nhuận ít nhất là bằng đầu tư vào các nơi gần đô thị có điều kiện thuận lợi hơn. Những nguồn lực phát triển đó sẽ góp phần tạo việc làm cho người dân, tạo thu nhập cho địa phương, từng bước được cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của dân cư trong vùng và sẽ rút ngắn dần khoảng cách với vùng đồng bằng. Đồng thời, cũng làm giảm khoảng cách về bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm dân cư.

Nền KTTT định hướng XHCN cần đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đã chứng minh, khi nào nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng thì nền KTTT định hướng XHCN sẽ đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đảng cần tăng cường sử dụng hợp lý các tổ chức, cán bộ nghiên cứu để tham mưu cho Đảng trong việc xây dựng, lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội cũng như những vấn đề trong đại của đất nước.


Các cấp ủy đảng, tùy theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể phải thường xuyên lắng nghe, tiếp thu và tổng kết thực tiễn để đổi mới phương thức lãnh đạo. Cải tiến hệ thống chính trị phù hợp với Hiến pháp và sự thay đổi của thể chế kinh tế.

Đổi mới, nâng cao vai trò, trách nhiệm tiên phong, gương mẫu của các tổ chức đảng và đảng viên trong sự nghiệp xây dựng nền KTTT định hướng XHCN. Để có đủ khả năng và điều kiện, lãnh đạo đúng đắn, hiệu quả, trong tình hình hiện nay, đảng viên phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, thực hiện nghiêm chỉnh và thường xuyên nghị quyết trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh của Đảng về mọi mặt, làm cho Đảng có đủ bản lĩnh chính trị, có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu cao đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN và tích cực hội nhập quốc tế.

Trong nền KTTT định hướng XHCN, Đảng từng bước đổi mới phong cách, lề lối làm việc. Các cuộc họp hành, hội nghị nên được giảm bớt để dành nhiều thời gian hơn đi nghiên cứu, khảo sát thực tiễn ở cơ sở, đối thoại thường xuyên với doanh nghiệp và nhân dân. Cải tiến các thủ tục hành chính trong Đảng, quy định rõ thời gian xử lý, trả lời đối với từng loại công việc, rút ngắn thủ tục “xin – cho”.

4.2.4. Trong điều kiện mới phải gắn kết giữa thị trường trong nước với quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực

Sức mạnh trong nước hay còn gọi là nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có phát huy được sức mạnh trong nước thì mới thu hút và sử dụng có hiệu quả sức mạnh thời đại. Phát huy sức mạnh trong nước trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất nguồn lực của Nhà nước. Điều có ý nghĩa quyết định là phải có chính sách phù hợp để phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội.

Sức mạnh thời đại có vai trò quan trọng cho sự phát triển. Kết hợp tốt sức mạnh trong nước và sức mạnh thời đại sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng đất nước. Sức mạnh thời đại, bao gồm cả vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý và thị trường... bổ sung cho nguồn lực trong nước, tạo thêm điều kiện để huy động và


sử dụng nội lực có hiệu quả cao hơn. Trong bối cảnh TCH và hội nhập kinh tế quốc tế, các nguồn lực bên ngoài càng trở nên quan trọng; một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta, muốn vươn lên để theo kịp các nước, không thể coi nhẹ việc thu hút và sử dụng tốt nhất công nghệ, vốn đầu tư nước ngoài. Muốn huy động được tốt nhất sức mạnh thời đại, phải có một chiến lược tổng thể, nhất quán và môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, trước hết là có một hệ thống thể chế, chính sách đồng bộ, một nền hành chính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập và định hướng XHCN. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, lấy lợi ích đất nước, nhân dân là mục tiêu cao nhất và nguyên tắc chủ đạo, đồng thời linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trước khi tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, nền kinh tế Việt Nam mang nặng tính khép kín, tự cung tự cấp. Kể từ khi Đảng khởi xướng đổi mới kinh tế, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế mở, có sự gắn kết với thị trường quốc tế. Từ đó, nền kinh tế chuyển mạnh theo hướng phát triển sản xuất trên cơ phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế mở, có quan hệ kinh tế toàn diện với thế giới bên ngoài. Việt Nam cũng trở thành một thành viên không thể thiếu trong nhiều định chế kinh tế khu vực và toàn cầu, gần đây Việt Nam cũng tích cực tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới ở cấp độ song phương và cả đa phương.

Các thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng trong hợp tác kinh tế quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam liên doanh, hợp tác với nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài. Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, sản phẩm và dịch vụ Việt Nam trên thị trường.

Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng là điều kiện để Việt Nam tiếp tục cải cách mạnh mẽ bên trong theo hướng gắn kết thị trường trong nước với thị trường quốc tế, làm cho luật pháp, chính sách của nước ta phải tương thích với luật pháp và thể chế của các quốc gia khác, các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế.


Đồng thời, thông qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng phát huy tốt hơn vai trò độc lập, tự chủ kinh tế của mình. Chúng ta sẽ có điều kiện để góp phần xây dựng luật chơi, sân chơi chung toàn cầu, qua đó sẽ đảm bảo được lợi ích quốc gia.

4.2.5. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà

nước đóng vai trò chủ đạo

Tiếp tục phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và làm rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Vì lợi ích của đất nước và nhân dân, cần khuyến khích kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển trong mọi ngành nghề mà pháp luật không cấm, tạo mọi điều kiện hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Trong quá trình phát triển của các thành phần kinh tế cần phát huy mặt tích cực, hạn chế tính tự phát, tiêu cực, vừa không triệt tiêu động lực phát triển vừa khống chế phân hóa hai đầu, giữ vững định hướng XHCN.

Chỉ khi nào các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh được mở rộng, đa dạng hóa quy mô và trình độ mới đảm bảo giải phóng sức sản xuất toàn xã hội, tăng cung hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ, đồng thời làm tăng cầu về hàng hóa yếu tố sản xuất, từ đó thúc đẩy cung cầu hàng hóa mở rộng phát triển.

Để có thể giải phóng được sức sản xuất xã hội, cần tiếp tục thực hiện hoàn toàn xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Coi các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng cấu thành nền KTTT định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, cùng phát triển lâu dài, trong đó phát triển kinh tế tư nhân phải được xác định là chiến lược lâu dài; nguồn lực đầu tư nước ngoài cần được thu hút mạnh; kinh tế cổ phần ngày càng được phát triển, trở thành hình thức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất đầu tư.

Hiện nay, trong bối cảnh KTTN ngày càng phát triển mạnh mẽ, thể chế KTTT định hướng XHCN ngày càng hoàn thiện và khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì Nhà nước chủ yếu điều tiết, quản lý nền kinh tế bằng phương thức gián tiếp. Do vậy, vai trò của DNNN cũng được điều chỉnh theo hướng giảm dần quy mô, tập trung vào những lĩnh vực quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế, những lĩnh vực mà tư nhân không muốn đầu tư:


Thứ nhất, nếu là DNNN sản xuất hàng hóa công cộng thì hoặc quản lý nó như một đơn vị sự nghiệp, hoặc cho đấu thấu theo gói hỗ trợ của Nhà nước. Các doanh nghiệp còn lại phải định hướng theo tiêu chí hiệu quả kinh tế cá biệt trong so sánh và cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác cùng ngành.

Thứ hai, các DN không cần thiết Nhà nước giữ cổ phần chi phối thì cần phải cổ phần hóa

Thứ ba, đối với những DN yếu kém, hoạt động kém hiệu quả cần phải cho giải thể, phá sản. Bên cạnh đó, cần xem xét trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu doanh nghiệp nếu để xảy ra tình trạng làm ăn thua lỗ.

Vai trò chủ đạo của thành phần KTNN cần được hiểu: có trình độ khoa học công nghệ, trình độ quản lý, năng suất, hiệu quả kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh cao; ở vai trò hàng đầu trong việc khắc phục những khiếm khuyết của nền KTTT, mang tính độc quyền trong những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia; thể hiện ở tính định hướng sự vận động của nền kinh tế - xã hội theo những mục tiêu nhất định và hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế khác theo mục tiêu định sẵn của Nhà nước. Vai trò của kinh tế nhà nước được thực hiện thông qua hệ thống cơ chế, chính sách kinh tế, hoạt động của DNNN giúp giải phóng sức sản xuất của nền kinh tế, thúc đẩy phát triển các thể chế KTTT.

4.2.6. Nguồn lực nhà nước cần được phân bổ theo cơ chế phù hợp

Việc phân bổ các nguồn lực đất nước đang diễn ra còn nhiều điểm bất hợp lý, khi chủ yếu dựa trên các mệnh lệnh hành chính của nhà nước, các DNNN luôn được ưu ái sử dụng nhiều nguồn lực, nhưng thực tế hiệu quả sử dụng lại không cao. Do vậy, việc thay đổi cách thức phân bổ nguồn lực quốc gia là điều cần thiết. Nguồn lực nhà nước cần phải được phân bổ hợp lý để có thể đẩy mạnh quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Nguồn lực nhà nước cần được phân bổ dựa theo cơ chế thị trường nhưng cũng đảm bảo được vai trò của Nhà nước, đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực nhà nước và sự kết hợp giữa nguồn lực nhà nước với nguồn lực tư nhân. Nguồn lực nhà nước cần được phân bổ một cách công khai, minh bạch, công bằng và có trách nhiệm giải trình với những nguyên tắc thị trường cao nhất.


Việc phân bổ nguồn lực nhà nước phải gắn với vai trò của Nhà nước trong nền KTTT, mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và xã hội, đảm bảo tính định hướng XHCN của nền KTTT; đảm bảo quyền lực chính trị của Đảng, Nhà nước và lợi ích của đông đảo nhân dân lao động. Các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, chủ thể của các thành phần kinh tế được tiếp cận nguồn lực bình đẳng và công bằng. Phân phối đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước – người lao động và người sử dụng lao động, tạo động lực cho người lao động và doanh nghiệp, đảm bảo lợi ích dân tộc. Nếu các nguồn lực được phân phối qua chính sách an sinh xã hội, đảm bảo mọi người đều được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng.

Các nguồn vốn đầu tư, nên có chính sách để được phân bố rộng rãi trong nhân dân, để nhân dân đều được thụ hưởng nguồn lực này, lấy đó là nguồn vốn phát triển, trên cơ sở đó phát triển mạnh mẽ loại hình sản xuất kinh doanh của người dân (dân doanh); đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

Đối với các nguồn vốn đầu tư của nhà nước, việc lựa chọn dự án đầu tư, thời điểm đầu tư cần phải đánh giá đầy đủ hiệu quả kinh tế và xã hội, tác động môi trường của dự án, chỉ chọn và phê duyệt những dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất phù hợp với số vốn bỏ ra. Để sử dụng các nguồn lực này, việc đấu thầu công khai, minh bạch là điều rất quan trọng, có sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.

Xem tất cả 184 trang.

Ngày đăng: 20/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí