Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang - 2

phạm và tội trộm cắp tài sản thì mới vận dụng tốt khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm.

Tuy nhiên thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử cho thấy nhận thức về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản hiện nay chưa được thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến trái ngược nhau. Những ý kiến khác nhau này đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm. Do quy định của pháp luật về chế định đồng phạm chưa được hoàn thiện, nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản còn hạn chế nên việc phân định giữa các hình thức đồng phạm, xác định vai trò, tính chất, mức độ tham gia của từng người đồng phạm còn chưa thống nhất, chính xác, ảnh hưởng đến công tác xét xử của một số Tòa án tại tỉnh Hà Giang. Những tồn tại, hạn chế này còn do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, song việc xác định, đánh giá đồng phạm trong các vụ án trộm cắp tài sản thiếu chính xác sẽ dẫn đến việc định tội danh, phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với các người đồng phạm nhiều khi bị đánh đồng, chưa lượng hóa được hình phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của vụ án đối với họ.

Những luận điểm nêu trên đã chứng tỏ lý do nghiên cứu đề tài “Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) là quan trọng và cấp thiết trong việc hoàn thiện và áp dụng đúng pháp luật hình sự nhằm bảo đảm xét xử vụ án hình sự được nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2. Tình hình nghiên cứu

Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản là những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp được các luật gia và các nhà nghiên cứu luật quan tâm chú ý và đề cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình dưới góc độ luật hình sự, tội phạm học hoặc xã hội học pháp luật. Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề đồng phạm nói chung và đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản nói riêng dưới các góc độ khác nhau ở mức chuyên sâu hoặc khái quát hóa đã được công bố trên các sách, tạp chí, luận văn luận án, nhưng tựu chung lại thì các nghiên

cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: tiếp cận dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2011), Định tội danh: lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS.Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội; Đặng Xuân Mai (1989), Làm gì để phòng chống tội phạm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 phần các tội phạm, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh;Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1993), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Hảo (1962), Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ Tư Pháp, Sài Gòn; Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam, (Quyển I – Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội…

Ngoài ra, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu có liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Lê Thị Khanh (2002), Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội; Phí Thành Trung (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương

(2011), Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội… và một số bài viết, nghiên cứu khác có liên quan như: Lê Văn Cảm (2005) “Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm”, Tạp chí TAND; Lê Thúy Phượng (1999), “Vấn đề định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí TAND; Lê Thị Sơn (2004), “Về dấu hiệu định lượng trong BLHS”, Tạp chí luật học; Bùi Đăng Hiếu (2005), “Tiền một loại tài sản trong quan hệ pháp luật hình sự”, Tạp chí Luật học; Bộ Tư pháp (1998),“Luật hình sự của một số nước trên thế giới”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề; TS.Nguyễn Khắc Hải (2007) “Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang Nga”, Tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nội, Số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ chức”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999

Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một số góc độ về trường hợp đồng phạm hoặc tội trộm cắp tài sản, nhưng chưa công trình nào đi sâu vào các khía cạnh đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản cả về phương diện lý luận và thực tiễn tại tỉnh Hà Giang.

3. Mục đích nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề mặt lý luận và thực tiễn tại tỉnh Hà Giang về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, phân tích một cách khoa học và có căn cứ một số vấn đề có liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản để qua đó có được cái nhìn thống nhất, tương đối đầy đủ và đóng góp về mặt khoa học để góp phần giải quyết những vướng mắc đang được đặt ra khi xác định giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm.

4. Đối tượng nghiên cứu

Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang - 2

Nghiên cứu lý luận về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:

- Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản

- Các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản

- Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản

- Thực tiễn xét xử và một số tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân đối với việc giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang

6. Phạm vi nghiên cứu

Về giới hạn vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về đồng phạm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam trong một tội phạm cụ thể đó là tội trộm cắp tài sản.

Về giới hạn không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc áp dụng các quy định của pháp luật đồng phạm trong việc xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Về giới hạn thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu trong giai đoạn 6 năm từ 2010 - 2015.

7. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của đề tài nêu trên là thành tựu từ các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh vực triết học, thành tựu từ các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách chuyên khảo cũng như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa học – luật gia trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước trong việc giải thích thống nhất các trường hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên quan đến trường hợp trên trong các văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các cơ quan bảo vệ pháp luật ban hành ở các mức độ khác nhau.

Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra trong nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Để từ đó xây dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và bảo vệ các quyền con người.

Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra. Các phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích – chứng minh, logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,...Đặc biệt trong đó tác giả nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ thống, đối chiếu so sánh, lịch sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn, phương pháp xã hội học,... để qua đó đưa ra được những kết luận khoa học mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án cụ thể sao cho phù hợp nhằm hoàn thiện và hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan đến vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.

8. Những điểm mới và đóng góp của luận văn

Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp xác định được khái niệm, các đặc điểm của đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản; Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999; Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản từ đó đưa ra những kiến nghị về mặt lập pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện quy định về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Việc xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp, đầy đủ, có hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.

Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu một cách khá toàn diện và có hệ thống về việc áp dụng các quy định pháp luật về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang, phân tích những vấn đề chung về giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh, từ đó tìm ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn, nêu lên những điểm bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về vấn đề này, đồng thời đưa ra những giải pháp, kiến giải để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam và trong thực tiễn áp dụng những quy định này trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

9. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, có tính hệ thống và tương đối toàn diện về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đồng phạm trong vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên.

Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định và áp dụng đúng đắn, thống nhất các vấn đề về định tội danh và quyết định hình phạt trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.

10. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Một số vấn đề chung về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản có đồng phạm tại Hà Giang.

Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội trộm cắp tài sản.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM


1.1. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm đồng phạm

“Đồng” theo Từ điển tiếng Việt nghĩa là cùng như nhau, không thể khác được. “Phạm” là làm tổn hại đến cái cần tôn trọng, mắc phải điều cần tránh. Đồng phạm nghĩa là cùng phạm tội hiểu theo nghĩa của luật hình sự” [3, tr. 245].

Nghiên cứu pháp luật hình sự các nước, chúng ta thấy quan niệm không giống nhau về khái niệm đồng phạm. Điểm qua quy định của một số nước trên thế giới quy định về khái niệm đồng phạm thấy rằng:

Bộ luật hình sự (BLHS) Thụy Điển quy định về người đồng phạm là người phối hợp với người khác cùng thực hiện một hành vi phạm tội hoặc một người tìm cách xúi giục người khác phạm tội hoặc đề nghị người khác phạm tội. “Khi xét xử từng người đồng phạm phải căn cứ vào việc người đó tham gia thực hiện tội phạm do cố ý hay vô ý” (Điều 4 – Chương 23). Như vậy, luật hình sự một số nước quan niệm đồng phạm có cả trong những tội phạm thực hiện do lỗi vô ý.

BLHS Pháp cũng quy định về chính phạm và đồng phạm (tòng phạm). Theo đó, chính phạm là người thực hiện các hành vi bị coi là tội phạm hoặc chuẩn bị thực hiện một trọng tội hoặc khinh tội trong trường hợp luật quy định (Điều 121.4). Người có ý thức giúp đỡ hoặc trợ lực và đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị hoặc thực hiện tội phạm bị coi là đồng phạm của một trọng tội hoặc khinh tội. Người dùng tặng vật, hứa hẹn, đe dọa, dùng mệnh lệnh, lạm dụng chức vụ hoặc quyền hạn để xúi giục hoặc có các chỉ dẫn để cho người khác thực hiện tội phạm cũng bị coi là đồng phạm (Điều 121.7).

BLHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1979 tại Điều 22 quy định: “Hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Theo Điều 33 BLHS của Liên Bang Nga cũng có quy định: “Hai hay nhiều người cùng cố ý

thực hiện một tội cố ý là đồng phạm”. Như vậy pháp luật hình sự của các nước trên thế giới có những quy định rất đa dạng về đồng phạm.

Tại Việt Nam, trước khi ban hành BLHS năm 1985 thì chưa có một văn bản pháp luật hình sự nào quy định thống nhất về khái niệm đồng phạm đối với tội phạm nói chung. Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc xử lý về hình sự đối với những trường hợp nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm, BLHS đã có điều luật riêng quy định về đồng phạm. Khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự 1999 quy định đồng phạm là trường hợp “có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.

Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật hình sự, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về khái niệm đồng phạm như sau:“Đồng phạm là hình thức phạm tội do cố ý được thực hiện với sự tham gia của 2 người trở lên” [5, tr. 458].

1.1.2. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Tội trộm cắp tài sản là một loại tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất phổ biến trong xã hội. Hiện nay trên thế giới tồn tại hai khuynh hướng khi quy định về tội trộm cắp tài sản trong văn bản pháp luật hình sự. Khuynh hướng thứ nhất không đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội trộm cắp tài sản mà mặc nhiên thừa nhận nó. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là điển hình cho khuynh hướng này, Điều 264 Bộ luật hình sự nước này quy định: “Người nào trộm cắp tài sản, tiền bạc công hoặc tư, thì bị phạt đến ba năm tù”.

Khuynh hướng thứ hai có quy phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài sản. Các nước như Liên bang Nga, Cộng hòa liên băng Đức, Nhật Bản, Malaixia, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào… đều thuộc khuynh hướng này. Điều 158 Liên bang Nga năm 1986 quy định: “Trộm cắp là (hành vi) bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác” [2, tr. 32]. Dựa trên cơ sở khái niệm này có thể xác định dấu hiệu cơ bản của tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản; sự chiếm đoạt tài sản được thể hiện một cách bí mật; tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản của người khác. Điều 142 BLHS của Cộng hòa liên băng Đức được ban hành năm 1871 và được sửa đổi bổ sung nhiều lần phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội đưa ra khái niệm của tội trộm cắp tài sản: “Người nào lấy đi vật là động sản của người khác, với

Ngày đăng: 11/04/2024