ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ MINH HIỀN
DOANH NGHIệP Xã HộI THEO PHáP LUậT VIệT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ MINH HIỀN
DOANH NGHIệP Xã HộI THEO PHáP LUậT VIệT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. PHAN THỊ THANH THỦY
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Thị Minh Hiền
Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI 7
1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp xã hội 7
1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển doanh nghiệp xã hội 7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp xã hội 17
1.2. Pháp luật về doanh nghiệp xã hội 32
1.2.1. Ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với doanh nghiệp xã hội 32
1.2.2. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp xã hội 34
Tiểu kết Chương 1 37
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 38
2.1. Các quy định của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam... 38
2.1.1. Những quy định về doanh nghiệp xã hội trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 được ban hành 38
2.1.2. Pháp luật về doanh nghiệp xã hội kể từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 được ban hành 40
2.2. Các vấn đề hạn chế của khung pháp luật về doanh nghiệp
xã hội 52
2.2.1. Về hình thức pháp lý và phân loại doanh nghiệp xã hội 53
2.2.2. Về huy động và quản lý vốn đến từ nguồn tài trợ nước ngoài 55
2.2.3. Về thực hiện chính sách phát triển đối với doanh nghiệp xã hội 56
2.2.4. Về khung khổ pháp lý cho doanh nghiệp xã hội hoạt động 57
2.2.5. Về các thiết chế hỗ trợ doanh nghiệp xã hội 58
Tiểu kết Chương 2 59
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI 60
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội 60
3.1.1. Xây dựng khung pháp luật đồng bộ cho doanh nghiệp xã hội hoạt động 60
3.1.2. Mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp xã hội 62
3.1.3. Đẩy mạnh chính sách hỗ trợ phát triển đối với doanh nghiệp xã hội 63
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp xã hội 65
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội 65
3.2.2. Quy định chi tiết về chính sách hỗ trợ và ưu đãi phát triển của Nhà nước đối với doanh nghiệp xã hội 68
3.2.3. Về tổ chức thực hiện pháp luật doanh nghiệp xã hội 71
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng | |
CSR | Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp |
DNCI | Doanh nghiệp công ích |
DNNN | Doanh nghiệp nhà nước |
DNXH | Doanh nghiệp xã hội |
DNhXH | Doanh nhân xã hội |
HTX | Hợp tác xã |
NGO | Non-Governmental Organization - Tổ chức phi chính phủ |
OECD | Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế |
TNHH | Trách nhiệm hữu hạn |
Có thể bạn quan tâm!
- Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam - 2
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Doanh Nghiệp Xã Hội
- Đặc Trưng Của Doanh Nghiệp Xã Hội Theo Luật Doanh Nghiệp Năm 2014
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với mức tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng trong những năm gần đây, sự gia tăng các vấn đề xã hội và môi trường tại Việt Nam cũng trở thành mối lo ngại lớn: khoảng 15 triệu người sống dưới mức nghèo đói, hơn 180 nghìn người nhiễm HIV, 5 triệu người khuyết tật, 3 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn… [23]. Những vấn đề xã hội cấp thiết trên cộng với sự khiếm khuyết trong hoạt động thị trường, sự hạn chế trong việc cung cấp các dịch vụ công của nhà nước và sự hạn chế về nguồn lực tài chính bền vững cũng như nhân sự điều hành chuyên nghiệp của các tổ chức xã hội truyền thống. Trong bối cảnh ấy, Doanh nghiệp xã hội (DNXH) là một giải pháp phù hợp cho bài toán khó về giải quyết những vấn đề xã hội, môi trường hướng tới sự phát triển ổn định và bền vững. Có thể nói Doanh nghiệp xã hội chứa đựng sự linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với cộng đồng, mang đến sự đa dạng nguồn vốn, khả năng độc lập về doanh thu, đáp ứng nhu cầu của xã hội về kinh doanh có đạo đức và quan trọng hơn là cung cấp những dịch vụ, hoạt động cần thiết cho xã hội nhưng ít người dám làm.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc Hội thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015. Đây là đạo luật có nhiều quy định mới mang tính đột phá, khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy tính sáng tạo, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, và phát triển bền vững. Một trong những điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp năm 2014 là sự công nhận và khuyến khích phát triển của Nhà nước đối với một mô hình doanh nghiệp mới, doanh nghiệp xã hội (Social
enterprise/ Entrepreneur - DNXH). Với những ưu điểm không thể bác bỏ được, cộng với đóng góp lớn cho cộng đồng, DNXH đang là mô hình phát triển rộng khắp trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở các quốc gia phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ... Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay mô doanh nghiệp này chưa được nhiều người biết tới và ít nhận được sự đầu tư, phát triển từ nhà nước và các tổ chức khác. Những khó khăn trên chủ yếu xuất phát từ định hướng của Nhà nước cho sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này. Đặc biệt là khung pháp lý vững chắc để cho các DNXH thành lập và hoạt động. Mới chỉ có một điều luật quy định về khái niệm DNXH mà chưa có những quy định cụ thể về thủ tục thành lập DNXH, cơ chế quản lý, hoạt động, lĩnh vực ngành nghề mà DNXH được phép hoạt động, các vấn đề liên quan đến giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động, chuyển quyền sở hữu đối với mô hình doanh nghiệp này,… Điều này dẫn đến việc DNXH mặc dù đã được manh nha ra đời ở Việt Nam từ những năm cuối của thế kỷ XX tuy nhiên cho đến hiện nay phát triển rất chậm, đóng góp vào sự phát triển xã hội chưa tương xứng với kì vọng của xã hội.
Mặc dù Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã đưa ra được một khuôn khổ pháp lý ban đầu cho tổ chức và hoạt động của DNXH, song vẫn còn nhiều vấn đề pháp lý có liên quan đến vấn đề xác định vị trí của DNXH trong số các chủ thể kinh doanh và chính sách của Nhà nước đối với loại doanh nghiệp này hiện còn bỏ ngỏ và cần phải làm rõ. Lần đầu tiên chúng ta quy định một mô hình doanh nghiệp mặc dù đã hình thành từ lâu nhưng còn tương đối mới lạ về mặt pháp lý. Thêm vào đó lĩnh vực hoạt động của DNXH còn gặp rất nhiều khó khăn trên thực tế do đó, ít người dám làm, dám đầu tư. Cơ chế chính sách, khung pháp lý cho sự hình thành và hoạt động của DNXH còn chưa được hình thành một cách bài bản. Hiện nay, trong Luật Doanh nghiệp 2014 mới chỉ có duy nhất một điều luật quy định về DNXH mà chưa có bất