Các Yêu Cầu Bảo Đảm Chất Lượng Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Trên Địa Bàn Thành Phố Đà Nẵng

vào các yếu tố khác như: Tính nguy hiểm của công cụ, phương tiện phạm tội; vị trí, cường độ tấn công; tương quan lực lượng, hoàn cảnh khi thực hiện hành vi phạm tội; thời gian nạn nhân chết; mối quan hệ nhân quả của hành vi phạm tội. Người viết cho rằng, đây là những yếu tố có ý nghĩa quyết định để định tội danh về tội phạm này. Khi xem xét giữa tội giết người (hoàn thành) và tội cố ý gây thương tích trong trường hợp dẫn đến chết người thì cần phân biệt:

Thứ nhất: Bị can không có mục đích giết người nhưng trong quá trình hành động biết rằng hành vi của mình tất yếu sẽ làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện thì cần định tội danh là giết người.

Thứ hai: Bị can không có mục đích giết người nhưng sử dụng hung khí nguy hiểm hoặc kể cả sử dụng chân tay tấn công vào các vị trí hiểm yếu trên cơ thể nạn nhân hoặc trong điều kiện, hoàn cảnh gây nguy hiểm cao...làm nạn nhân chết thì cần định tội danh là giết người.

Thứ ba: Bị can không có mục đích giết người nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra. Nếu hậu quả vừa làm chết người vừa làm bị thương người khác thì cần xác định phạm cả 2 tội là giết người và cố ý gây thương tích.

2.2.3.2. Các nguyên nhân cơ bản

* Về việc đánh giá chứng cứ

Đánh giá chứng cứ được xem là hoạt động then chốt, có ý nghĩa quyết định trong việc định tội danh, áp dụng khung hình phạt trong quá trình xét xử. Thông qua hoạt động đánh giá chứng cứ, nhận thức của thẩm phán về các tình tiết của vụ án giết người được nâng cao một cách đầy đủ toàn diện. Đồng thời trong quá trình đánh giá chứng cứ, người đánh giá chứng cứ biết rõ giá trị chứng minh của từng chứng cứ và xác định chứng cứ đó có liên quan đến tình tiết vụ án và mức độ chứng minh đến đâu. Đánh giá chứng cứ diễn ra liên tục trong suốt quá trình giải quyết vụ án và chỉ kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên trong thời gian qua, có trường hợp Thẩm phán không coi trọng hoạt động này mà chỉ chú ý xem xét tổng thể các chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ, không phân tích đánh giá cụ thể chứng cứ nào dùng để chứng minh cho tình tiết nào của vụ án, mối quan hệ giữa các chứng

cứ, có các mâu thuẫn phát sinh qua việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ hay không. Việc đánh giá chứng cứ không đồng bộ, việc đưa từng chứng cứ vào trong toàn bộ hệ thống chứng cứ để đánh giá thường bị xem nhẹ, hoặc bỏ quên, sự phân công trách nhiệm giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử trong việc tham gia vào hoạt động đánh giá chứng cứ chưa cụ thể rõ ràng, việc đánh giá chứng cứ của một số thẩm phán, hội thẩm nhân dân còn chủ quan, vội vàng nên hiệu quả chứng minh không cao, dẫn đến án hủy vẫn còn.

* Trình độ nghiệp vụ và trang thiết bị phục vụ cho công tác xử lý tội phạm còn hạn chế ảnh hương đến chất lượng định tội danh

Trong quá trình xét xử, còn tình trạng nhầm lẫn giữa các tình tiết định tội và tình tiết tăng nặng. Trong các tình tiết định tội ở khung cơ bản của Điều 104 có những tình tiết giống như tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Ví dụ như điểm d "đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già yếu, ốm đau…"; điểm đ "Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình"; điểm e "có tổ chức"; điểm h, điểm i và điểm k "Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê"; "Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm"; "Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân". Tuy nhiên, các tình tiết của khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự là tình tiết định tội cho những trường hợp tỷ lệ thương tích dưới 11%, còn các tình tiết tại khoản 1 Điều 93 là các tình tiết định khung tăng nặng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Trong một số vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng đã nhầm lẫn về ý thức chủ quan: (Cố ý giết người và cố ý gây thương tích) và nhầm lẫn về hậu quả (Chết người và chỉ là thương tích). Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử tại toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng, việc xác định ý thức chủ quan của bị cáo là rất khó khăn trong trường hợp không xác định ý thức chủ quan của bị cáo là giết người. Những trường hợp này thì hậu quả đến đâu, Toà án xử bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đến đấy.

Cũng có quan điểm cho rằng khi không xác định rõ ý thức chủ quan của bị cáo, nhưng hành vi khách quan thì thể hiện rõ không phải là chỉ cố ý gây thương tích mà là cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác thì bị cáo phạm tội giết người.

Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng) - 11

Ví dụ nhưng dùng hung khí nguy hiểm như mã tấu, dao, súng nhằm vào những bộ phận quan trọng của cơ thể người khác để chém, đấm, bắn thì cho dù hậu quả không dẫn tới chết người thì cũng phạm tội giết người. Quan điểm này cho rằng khi sử dụng các hung khí, phương tiện nguy hiểm đó buộc bị cáo phải nhận thức được có thể dẫn tới tước đoạt tính mạng của người khác.

Theo người viết, việc định tội danh giết người trong những trường hợp này là đúng mặc dù hậu quả chưa xảy ra và Tòa án có thể áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự "bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người". Sử dụng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người là những hành vi như ném lựu đạn vào chỗ đông người, bắn súng vào chỗ đông người, đặt mìn, dùng xe ô tô lao vào chỗ đông người, bỏ thuốc độc vào nguồn nước hoặc thức ăn v.v…

* Về định tội danh, áp dụng các tình tiết định khung hình phạt chưa thoả đáng

Xác định tội danh, áp dụng tình tiết định khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong xét xử các vụ án hình sự nói chung và vụ án giết người nói riêng là một vấn đề hết sức quan trọng, là giai đoạn cơ bản trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều khoản nào của Bộ luật hình sự, người áp dụng sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi đó. Vì thế việc xác định tội danh, áp dụng tình tiết định khung hình phạt trong xét xử được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong xét xử về tội giết người. Trong trường hợp định tội không chính xác sẽ dẫn đến kết án sai, không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án, xử lý oan người vô tội, để lọt tội phạm, xử nhẹ hoặc nặng hơn so với tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi tội phạm đó. Việc xử lý hình sự thiếu chính xác như thế sẽ xâm phạm đến những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Tuy nhiên thực tiễn một số Thẩm phán tại Toàn án nhân dân thành phố Đà Nẵng chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, chưa tích cực nâng cao trình độ chuyên môn, quá trình xét xử vẫn chưa áp dụng đúng các quy định của pháp luật nên vẫn để án hủy về tôi giết người ở cấp phúc thẩm.

* Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa nhịp nhàng, thống nhất

Sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa ba ngành Công an - Viện kiểm sát – Tòa án chưa kịp thời, chính xác đói với các vụ án phức tạp, án trọng điểm, những vụ án gây bức xúc trong dư luận. Một số vụ án đương sự phản cung tại phiên tòa thì các cơ quan chưa có sự phối hợp chặt chẽ vẫn còn tình trạng hồ sơ không đầy đủ, buộc Toà án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đối với các chứng cứ đề nghị điều tra bổ sung, các cơ quan vẫn còn tiến hành điều tra chậm, đùn đẩy trách nhiệm.

Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc là do: Nhận thức pháp luật của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên trên một số lĩnh vực còn nhiều hạn chế và chưa thực sự thống nhất. Hoạt động của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên có lúc chưa tốt, còn có nhận thức vì cái tôi, quyền năng của mỗi ngành mà chưa thực hiện đúng yêu cầu của cải cách tư pháp. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên chưa nghiên cứu kỹ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án giết người, không nắm đầy đủ các quy định của pháp luật, tâm lý còn e ngại, né trách, sợ trách nhiệm, chưa thực sự tâm huyết với công việc được giao. Việc phối hợp giữa Kiểm sát viên và Thẩm phán đôi lúc còn mang nặng tính hình thức, chưa đi vào nội dung cụ thể.

Tồn tại, thiếu sót trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, của các ngành Công an, Tòa án, Thi hành án cũng là tồn tại, thiếu sót của ngành Kiểm sát. Do đó, việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng càng cần phải được tăng cường một cách hiệu quả hơn theo tinh thần Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2013 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm và Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2013 về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó có tội giết người.

Chương 3

NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG


3.1. CÁC YÊU CẦU BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1.1. Yêu cầu về chính trị, xã hội

Đường lối, quan điểm của Đảng về tổ chức, hoạt động của Tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp tiến bộ được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 2013. Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử, đảm bảo là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm. Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã ban hành nhiều chỉ thị, Nghị quyết, Kết luận, Chương trình, văn bản... đã thể hiện chính sách chung trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, cũng như phòng ngừa oan, sai, vi phạm pháp luật trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã chủ động đưa ra các giải pháp tích cực, các vụ án được đưa ra xét xử kịp thời, đúng thời hạn luật định. Việc tranh tụng tại các phiên toà được đặc biệt chú trọng, các phán quyết của Hội đồng xét xử đều căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Đội ngũ Luật sư, người đại diện theo pháp luật được tạo điều kiện thuận lợi tham gia tranh tụng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản năm 2011 đã đề ra:

Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý,

tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự... đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp... [15, tr. 250].

3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng, những kết quả đó mới là bước đầu, chưa thật sự bền vững và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác xét xử còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Đội ngũ thẩm phán, thư ký còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một số cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp.

Cùng với những hạn chế nêu trên, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày càng càng nghiêm trọng, nhất là tội phạm giết người. Do vậy thời gian tới đặt ra cần nâng cao chất lượng xét xử tại địa bàn thành phố Đà Nẵng:

Trong quá trình xét xử, Tòa án nhân dân phải thực hiện việc xem xét, đánh giá chứng cứ để xác định chính xác tội danh, quyết định hình phạt đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với tội giết người. Việc xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội, không để xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Hình phạt đối với các bị cáo phạm tội giết người phải đảm bảo tính nghiêm khắc nhất, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa tiếp tục phải được triển khai sâu rộng, các Luật sư được tạo điều kiện thuận lợi khi tham gia tố tụng tại tòa án. Phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa ba ngành Công an - Viện kiểm sát – Tòa án nhằm đảm bảo giải quyết kịp thời, chính xác các vụ án phức tạp, án trọng điểm, những vụ án gây bức xúc trong dư luận. Công tác xét xử lưu động phải được thực hiện tốt, đặc biệt là tội giết người, góp phần giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trên địa bàn, giữ vững an ninh chính trị địa

phương. Trong phiên tòa lưu động, cần phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý để tuyên truyền về công tác trợ giúp pháp lý, tạo điều kiện để nhân dân tiếp cận dịch vụ này một cách có hiệu quả.

Nếu cố gắng tới mức thấp nhất hạn chế này cũng sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo vệ, bảo đảm quyền được sống của con người, cũng như qua đó thực hiện nghiêm minh pháp chế xã hội chủ nghĩa, cũng như uy tín của Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật được nâng lên rõ rệt. Chính vì vậy, cần thiết phải hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội giết người và các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật - cơ sở pháp lý của việc định tội danh chính xác và đúng pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, vừa qua Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã xác định rõ Tòa án với tư cách cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp phải có những phán quyết chính xác, công bằng thể hiện ở việc định tội danh đúng và quyết định hình phạt chính xác. Bên cạnh đó, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định:

... Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác... .

Cho nên, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc định tội danh đối với tội giết người dưới phương diện lý luận và thực tiễn đóng vai trò quan trọng, góp phần hạn chế tới mức thấp nhất các tồn tại trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự về loại tội phạm nguy hiểm này.

3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự

Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về định tội danh nói chung và tội giết người chính là từng bước khắc phục hết một số tồn tại trong việc định tội danh đối

với tội phạm này của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác định tội danh có ý nghĩa về phương diện lập pháp hình sự, cũng như xác định rõ ranh giới phạm tội và không phải là tội phạm, tránh vi phạm trong thực tiễn xét xử.

Qua nghiên cứu, khảo sát chất lượng của hoạt động định tội danh đối với tội giết người của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng cho thấy, về cơ bản được bảo đảm và tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, đặc biệt trong việc thụ lý và giải quyết vụ án về tội giết người.

Tuy nhiên, trong quá trình xét xử, một vài vụ án Tòa án hai cấp chưa làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, vai trò của một số Hội thẩm vẫn còn hạn chế, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một vài Thẩm phán chưa đáp ứng yêu cầu của thực tế nên vẫn còn trường hợp áp dụng chưa đúng. Tổng kết vấn đề này trong giai đoạn 05 năm (2011 - 2015) xét xử về tội giết người của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng còn có một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản như đã phân tích ở Chương 2.

Như vậy, trong số các nguyên nhân có nguyên nhân do hệ thống văn bản pháp luật hình sự (Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chưa hoàn thiện). Vì vậy, từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao hiệu quả của hoạt động định tội danh đối với tội giết người đòi hỏi không chỉ hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự để có căn cứ pháp lý chặt chẽ và thống nhất khi định tội danh đối với tội phạm này, cũng như có các giải pháp bảo đảm áp đụng đúng các quy định của công tác định tội danh, qua đó, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả cao.

3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI

3.2.1. Hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam

* Về khái niệm tội giết người, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (Điều

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí