Hoàn Thiện Công Tác Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng Của Chi Nhánh

hướng đầu tư của nhà nước,

- Đối với nguồn rủi ro nhân viên ngân hàng, ta có xây dựng bảng liệt kê sau:


Bảng 3.3: Bảng liệt kê nguồn rủi ro nhân viên ngân hàng


Nghi vấn về điều

kiện rủi ro

Nguy cơ rủi ro

1. Năng lực cán bộ


- Trình độ chuyên

- Khả năng xử lý thông tin, phân tích kinh tế kém dễ dẫn

môn

đến đánh giá sai về khách hàng, có những lựa chọn khách


hàng sai lầm, ảnh hưởng đến chất lượng của khoản cho vay.

- Khả năng giao tiếp

- Nếu cán bộ không có quan hệ rộng, tốt, sẽ khó thu thập


thông tin đầy đủ , chính xác dẫn đến gặp phải rủi ro do


thông tin không cân xứng.

- Trình độ hiểu biết

- Kém hiểu biết về ngành nghề kinh doanh của khách hàng,


các văn bản pháp luật có liên quan sẽ gây ra rủi ro cao

2. Đạo đức cán bộ

- Phẩm chất đạo đức nhân viên không tốt, có tư tưởng quá


thiên về lợi ích cá nhân dễ dẫn đến rủi ro do câu kết giữa


nhân viên ngân hàng và khách hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình - 11


Sau khi lập được các bảng liệt kê cơ bản về từng nguồn rủi ro khi cấp tín dụng, tùy theo từng thời kỳ khác, từng đối tượng khách hàng khác nhau mà ta sẽ loại bỏ những nghi vấn không rõ ràng, không có căn cứ, giữ lại, bổ sung, và chi tiết các nghi vấn mới, cụ thể như tại chi nhánh, ta có thể xây dựng bảng liệt kê về nguồn rủi ro khách hàng thành 3 nhóm khách hàng chính là cá nhân vay tiêu dùng, HSX và doanh nghiệp hoặc xây dựng theo từng ngành nghề kinh doanh. Qua đó, dễ dàng nhận dạng các rủi ro có thể xảy ra cho ngân hàng khi thực hiện cấp tín dụng cho từng đối tượng khách hàng, cho từng ngành nghề kinh doanh. Trên cơ sở đó, chi nhánh sẽ tiến hành xây dựng các chính sách như chính sách tín dụng, chính sách khách hàng,… phù hợp với từng thời kỳ nhất định. Đối với CBTD của chi nhánh, bảng liệt kê câu hỏi (bảng liệt kê rủi ro khách hàng) sẽ giúp họ đặt ra những câu hỏi, nghi vấn cụ thể đối với từng khách hàng và đi tìm lời giải đáp nhằm đưa ra kết luận có chấp nhận lời đề nghị cấp tín dụng của khách hàng không.

3.2.2. Hoàn thiện công tác đo lường rủi ro tín dụng của chi nhánh

Mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng khi cho vay là khả năng trả nợ đúng hạn từ kết quả kinh doanh của người vay chứ không phải là phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Chính vì vậy, trước khi chấp nhận lời đề nghị của khách hàng, ngân hàng cần phải biết đích xác mức độ RRTD nếu họ thực hiện việc cấp tín dụng. Trong điều kiện hiện nay, phương pháp tốt nhất để đo lường RRTD tại chi nhánh Thăng Bình là phương pháp định tính. Theo phương pháp này, để đo lường RRTD, ngân hàng cần phải trả lời các câu hỏi sau:

- Khách hàng họ là ai?.

- Họ vay để làm gì và làm như thế nào?

- Khả năng hoàn trả lại nợ vay ra sao?

- Nếu họ không trả được nợ theo đúng thoả thuận, ngân hàng sẽ thu nợ như thế

nào?


- Mức độ thành công trong quan hệ tín dụng này cao hay thấp?.

Hiện nay, việc đo lường RRTD tại chi nhánh Thăng Bình tương đối tốt. Tuy

nhiên, để thực hiện công tác này tốt hơn nữa trong điều kiện quy mô tín dụng ngày càng mở rộng và cạnh tranh ngày càng gay gắt, chi nhánh Thăng Bình cần hoàn thiện công tác này trên một số nội dung sau:

* Một là, Hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng. Để đánh giá chính xác về khách hàng, cần tập trung vào 3 nội dung sau:

- Đánh giá tư cách vay nợ của khách hàng bao gồm:

+ Đánh giá năng lực pháp lý thật sự của khách hàng. Đối với khách hàng là doanh nghiệp, cần phải kiểm tra quyết định thành lập, đăng ký kinh doanh, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng. Đối với khách hàng là cá nhân, HSX, phải kiểm tra xem họ đủ tư cách vay nợ không.

+ Đánh giá uy tín của khách hàng. Uy tín ở đây không chỉ có nghĩa là sẵn lòng trả nợ mà còn phản ánh sự kiên quyết nhằm thực hiện tất cả những giao ước các điều khoản của hợp đồng. Uy tín quan trọng nhất của tín dụng là tính thật thà và liêm chính của người đi vay. Do vậy, cần phải đánh giá đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường, nhu cầu của khách hàng, để có thể phát hiện ra dấu

hiệu lừa đảo ngay từ đầu của một số khách hàng. Uy tín của doanh nghiệp thể hiện ở: Giá cả, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp chiếm lĩnh được trên thị trường, có quan hệ thanh toán với bạn hàng và với ngân hàng sòng phẳng, tình hình tài chính lành mạnh. Để đánh giá được yếu tố này, chi nhánh Thăng Bình nên tìm hiểu thông qua các quan hệ vay vốn với chi nhánh Thăng Bình hay các ngân hàng khác hoặc quan hệ mua bán chịu của khách hàng với các doanh nghiệp khác.

- Đánh giá năng lực tài chính của khách hàng. Việc đánh giá tình hình tài chính của khách hàng là doanh nghiệp thông qua báo cáo tài chính. Để có thể đánh giá một cách chính xác năng lực tài chính, thanh toán của doanh nghiệp, những nội dung cần đi sâu phân tích là: Hàng tồn kho, các khoản phải thu, các khoản phải trả, doanh thu, chi phí, lợi nhuận. Phân tích thị trường về khả năng tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. Đồng thời tính toán một hệ thống các chỉ số, trong đó đặc biệt chú trọng các chỉ số đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp như các chỉ số về khả năng thanh toán (chỉ số vốn lưu động, chỉ số thanh toán nhanh), hệ số tài trợ vốn. Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp có thể hiểu biết sâu sắc về thực trạng tài chính của doanh nghiệp, tuy nhiên, các CBTD cần phải biết những hạn chế của nó để tránh sai sót khi đánh giá. Vì hiện nay, để giải quyết nhiều mục tiêu khác nhau một số doanh nghiệp không đưa ra những báo cáo tài chính đích thực của mình, nhiều số liệu ma xuất hiện hoặc được “trang điểm” để tâng bốc cho tiềm lực của mình, do Nhà nước chưa có quy định kiểm toán độc lập bắt buộc đối với các báo cáo tài chính. Vì vậy, CBTD phải tìm mọi cách giảm thiểu ảnh hưởng của chúng đến kết quả phân tích. Đối với cá nhân (các khoản vay tiêu dùng) hoặc HSX thường đánh giá tài sản tích lũy và khả năng tạo ra thu nhập của họ thông qua các yếu tố khả năng, sức khỏe, giáo dục, tuổi tác, nghề nghiệp ổn định, tháo vát, kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực mà HSX dự định đầu tư SXKD, nuôi trồng như thế nào cũng như mối quan hệ vay mượn của HSX với các cá nhân, HSX khác.

- Đánh giá năng lực hoạt động SXKD của khách hàng. Đó là khả năng tổ chức, quản lý và điều hành SX-KD trên nhiều mặt (chất lượng quản lý) như nhà quản lý có năng lực, khả năng thu hút đội ngũ nhân sự, tìm kiếm nguyên liệu đầu vào và thị trường đầu ra, tiền vốn... Hiện nay, thường đánh giá khả năng quản lý dựa vào bằng cấp, tính lâu năm công tác (kinh nghiệm) của nhà quản lý hay chủ hộ. Tuy mhiên, việc

đánh giá dựa vào các tiêu chí như trên chưa phải là tốt mà phải kết hợp với tình hình thực tế hoạt động SX-KD của khách hàng.

- Đánh giá triển vọng đầu tư phát triển của khách hàng vay vốn. Trên cơ sở đánh giá năng lực tài chính và năng lực hoạt động SX-KD ở trên làm căn cứ đánh giá triển vọng đầu tư phát triển của khách hàng nhanh, chậm, thu gọn hay mở rộng SX- KD. Thông qua việc phân tích thực trạng của khách hàng vay vốn hiện tại kết hợp với việc đánh giá hiệu quả của phương án kinh doanh và môi trường kinh doanh để dự báo triển vọng của khách hàng vay vốn trong tương lai như thế nào để chi nhánh Thăng Bình có đối sách thích hợp giữ mối quan hệ với khách hàng.

* Hai là, Hoàn thiện công tác thẩm định phương án đầu tư của khách hàng, nhất là đối với phương án đầu tư trung, dài hạn

Việc thẩm định phương án, dự án vay vốn phải nhằm hướng đến mục tiêu bảo đảm đáp ứng đủ các điều kiện cho vay, nguyên tắc cho vay theo thể lệ quy định cụ thể đối với loại cho vay đó, đồng thời, đảm bảo sau khi cho vay ngân hàng sẽ thu hồi được gốc và lãi đúng hạn. Đối với các dự án trung dài hạn cần thẩm định thêm các yếu tố sau:

- Thẩm định về phương diện thị trường. Phân tích khả năng tiêu thụ sản phẩm về giá cả, quy cách sản phẩm, mẫu mã, thị hiếu người tiêu dùng. Xem xét về các thị trường hiện tại và tiềm năng của khách hàng.

- Thẩm định về phương diện kỹ thuật. Phải đánh giá quy mô dự án, có phù hợp với năng lực của khách hàng (về vốn, trình độ quản lý, lao động), khả năng cung ứng nguyên vật liệu, năng lực quản lý của khách hàng, phải xem xét về mặt công nghệ của thiết bị để đưa ra các phương án nhằm chọn được công nghệ thiết bị tối ưu nhất.

- Thẩm định địa điểm xây dựng dự án theo các yêu cầu. Có gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu, hoặc nơi tiêu thụ chính hay tiện lợi về giao thông vận tải.

- Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế tài chính. Đây là yếu tố quyết định trực tiếp đến việc lựa chọn các dự án đầu tư. Các phương pháp thẩm định dự án như: Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian hoàn vốn có chiết khấu, đồng thời phân tích độ nhạy của dự án đối với những biến động tương lai của lãi suất, giá thị trường, các phương thức hoàn trả vốn vay.

Ngoài ra còn phải thẩm định về môi trường xã hội, chính trị, pháp lý của dự án, phương án đầu tư.

Bên cạnh đó, trong quá trình thẩm định các dự án dài hạn hoặc phương án vay vốn ngắn hạn, nếu có vấn đề nào mà CBTD chưa có đủ điều kiện hoặc trình độ thẩm định thì cần phải phối hợp hoặc thuê cơ quan, tổ chức chuyên ngành để quá trình thẩm định đạt được chất lượng cao và mang tính khách quan.

* Ba là, Đánh giá nguồn trả nợ

Để xác định nguồn trả nợ của khách hàng cần dựa trên cơ sở của việc phân tích hiệu quả của phương án đầu tư. Đây được xem là nguồn thu nợ chính của khoản vay. Nếu khoản tiền vay được trả nợ bằng thu nhập của khách hàng thì ngân hàng cần phải xác định phương án đó có tạo ra thu nhập không (có bán được hàng, có doanh thu...) và thời điểm có thu nhập là thời điểm nào (chu kỳ SXKD) để có quyết định thời gian cũng như phương thức trả nợ thích hợp. Nếu khoản vay được trả nợ bằng lợi nhuận tạo ra của dự án cần phải đánh giá xem dự án, phương án kinh doanh có tạo ra lợi nhuận không, thời gian nào, bao nhiêu, có đủ dùng để trả nợ để xây dựng phương thức trả nợ thích hợp.

Ngoài ra, cũng cần phải đánh giá nguồn thu nợ dự phòng, đó là tài sản cầm cố, thế chấp của người vay hay sự bảo lãnh. Đây được xem là nguồn thu nợ thứ 2, dự phòng cho nguồn thu nợ thứ nhất đã xem xét ở trên. Do vậy, cần xem xét tài sản của người xin vay trên các khía cạnh như quy mô, tính hiện đại, tính thị trường, tính chất sở hữu... Nếu món vay có người bảo lãnh thì cần phải đánh giá khả năng trả nợ của người bảo lãnh như thế nào.

Cuối cùng là đánh giá mức độ rủi ro mà ngân hàng gặp phải nếu cấp tín dụng: Công việc đánh giá này là khá khó khăn, phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực và tính nhạy bén, linh hoạt lẫn kinh nghiệm của CBTD. Khi phân tích mức độ rủi ro đối với một khoản cho vay. Ngân hàng cần phải xem xét kỹ về kinh nghiệm quản lý, tiềm năng, các chính sách, khả năng sinh lời, luân chuyển vốn và giá trị thực của doanh nghiệp vay tiền. CBTD phải tự trả lời các câu hỏi: khách hàng nên được vay bao nhiêu, cần phải mất bao nhiêu thời gian để thu được món nợ, mục đích đích thực của khoản tiền vay là gì?. Để việc đánh giá mức độ rủi ro của các khoản cho vay được

chính xác, CBTD cần lưu ý một số kinh nghiệm sau:

Một là, Cho vay, trước hết là quyết định của CBTD và họ là người phải chịu trách nhiệm về quyết định mà mình đưa ra. Quyết định cho vay hay không không phải là có tiền hay không mà khi quyết định, CBTD phải cảm thấy thỏa mản, hài lòng với khả năng phán xét của mình, tức quyết định này mang tính chất độc lập, không dựa trên những văn bản hướng dẫn hay những kỹ thuật phân tích, không bị chi phối bởi những người có liên quan. Nói cách khác, CBTD cần phải có sự nhạy cảm và khả năng đánh giá chính xác.

Hai là, Phẩm chất đạo đức của người vay tiền phải hoàn toàn trung thực. Nếu CBTD không rõ ràng hay còn nghi ngờ về tính trung thực của người vay thì không nên cho vay. Nếu ngân hàng quan hệ với những khách hàng mà kém tư cách thì không những làm hủy họa danh tiếng của ngân hàng mà còn chịu thiệt hại nhiều hơn so với lợi nhuận mà ngân hàng đạt được trong giao dịch đó. Nếu không hiểu rõ về khách hàng thì không nên cho khách hàng vay. Do đó, trước khi cho vay thì phải định hình các rủi ro có thể gặp phải và lợi nhuận đạt được như thế nào.

Ba là, Bất kỳ một khoản cho vay nào, dẫu trong điều kiện thuận lợi nhất, cũng đều hàm chứa khả năng rủi ro nhất định và không thể có mức lãi suất cao nào có thể đủ để bù đắp những tổn thất nếu khoản cho vay gặp phải rủi ro.

Bốn là, Mọi khoản cho vay nên có 2 nguồn thu nợ ngay từ đầu, nếu không ít nhất phải có phương án dự phòng. Khi công việc làm ăn của người vay trôi chảy, bán được hàng, thu được tiền, có lãi thì đây là nguồn trả nợ chính, còn nếu không gặp may thì phải có nguồn thu nợ dự phòng để thu hồi nợ vay. Đó chính là nguồn thu nợ thứ 2.

Năm là, Các loại tài sản thế chấp không thể coi là thay thế cho việc trả nợ. Khi một khoản vay được bảo lãnh thì phải chắc chắn rằng: người bảo lãnh hoàn toàn nhận thức được trách nhiệm của mình. Các khoản cho vay được đảm bảo bằng tài sản thế chấp thì các tài sản thế chấp phải có khả năng phát mại và cần phải có cái nhìn nhận ở góc độ chuyên môn, không thiên vị đối với những tài sản thế chấp này. Mặt khác, cũng cần có nhận thức hết sức tách bạch về sự khác biệt giữa giá thị trường, giá thanh lý, giá bán bắt buộc và sự khác biệt giữa các loại giá này nên nhớ là rất lớn, có ảnh hưởng đến RRTD.

Sáu là, Chu kỳ kinh doanh là không thể dự đoán được. Do nhân tố điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả nợ vay và nó vượt quá sự kiểm soát của người vay và người cho vay nên rất khó dự báo chính xác.

Bảy là, Cho vay với những doanh nghiệp nhỏ, khả năng rủi ro cao hơn cho vay đối với những doanh nghiệp lớn.

3.2.3. Hoàn thiện công tác kiểm soát và phòng ngừa rủi ro tín dụng của chi nhánh Thăng Bình

3.2.3.1. Hoàn thiện công tác thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin

Công tác thông tin luôn được coi là yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong công tác thẩm định, đưa ra quyết định có cho vay hay không, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để giúp chi nhánh Thăng Bình kiểm soát nguồn RRTD. Hiện tại hoạt động của Trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHNN (CIC) và Trung tâm thông tin của NHTM (TPR) cũng đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của hoạt động tín dụng. Để công tác thu thập thông tin đạt hiệu quả, chi nhánh Thăng Bình có thể thực hiện một số giải pháp sau:

+ Khai thác triệt để các kênh thông tin ngoài kênh thông tin do khách hàng cung cấp như thông tin lưu trữ tại ngân hàng, thông tin bên ngoài cung cấp, đặc biệt là trung tâm thông tin của NHNN (CIC), để có điều kiện kiểm chứng thông tin do khách hàng cung cấp. Nếu chi nhánh Thăng Bình làm được như vậy, mới giúp CBTD vượt qua những thông tin không cân xứng và sự lựa chọn đối nghịch.

+ Các CBTD cần tranh thủ nắm bắt các thông tin có ích trên thị trường bằng cách thường xuyên theo dõi qua các phương tiện thông tin đại chúng cũng như khai thác thông tin qua mạng Internet, qua thị trường chứng khoán ...

+ Tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thông tin phòng ngừa rủi ro tại chi nhánh Thăng Bình nhằm trang bị phương pháp tìm kiếm, tra cứu, phân tích thông tin từ các nguồn nhằm cung cấp cho CBTD và cán bộ lãnh đạo trước khi quyết định cho vay.

+ Trong khi Nhà nước chưa có quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các doanh nghiệp thì chi nhánh Thăng Bình cần phải có quy định cụ thể về trách nhiệm và nghĩa vụ phải gửi các báo cáo tài chính và kết quả tài chính cho ngân hàng của các

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí