vay mà chi nhánh đã thực hiện, phát hiện sớm các khoản cho vay có vấn đề (khoảng vay có khả năng bị tổn thất) để làm cơ sở để gia tăng sự giám sát, áp dụng các biện pháp khẩn cấp để giảm thiểu tổn thất hay xác định mức dự phòng rủi ro cho vay. Do vậy, chi nhánh Thăng Bình cần phải thực hiện nghiêm túc quy định về loại rủi ro tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro đúng quy định hiện hành. Ngoài ra, để tạo điều kiện áp dụng các biện pháp giám sát khoản vay có hiệu quả hơn, chi nhánh Thăng Bình nên phân hạng các khoản cho vay của mình theo 6 mức sau:
Mức 1: Khoản vay ít rủi ro. Khả năng trả nợ của khách hàng theo thoả thuận là khá chắc chắn nhưng có thể có yếu tố nhỏ về rủi ro.
Mức 2: Khoản vay có mức rủi ro trung bình. Khả năng trả nợ của khách hàng theo thoả thuận là vững chắc nhưng có thể xảy ra rủi ro, cần có sự kiểm soát.
Mức 3: Khoản vay có mức rủi ro trên trung bình. Khả năng trả nợ của khách hàng theo thoả thuận ở mức mạo hiểm cao do những yếu kém lớn trên một số khía cạnh nhưng những yếu kém trên các khía cạnh này có dấu hiệu có khả năng sữa chữa được, cần tăng cường việc giám sát để đảm bảo tình huống không xấu đi.
Mức 4: Khoản vay có mức rủi ro cao. Khách hàng đang trong tình trạng xấu kéo dài như thua lỗ trong kinh doanh, khó khăn trầm trọng về khả năng thanh toán., cần từ bỏ mối quan hệ để tránh thua lỗ tiềm tàng.
Mức 5: Khoản vay khó đòi lãi. Khách hàng có rủi ro cao, ngân hàng có thể bị thất thoát lãi nhưng hy vọng có thể thu đủ nợ gốc.
Mức 6: Khoản vay khó đòi cả gốc và lãi. Khách hàng có rủi ro cao, ngân hàng có thể bị thất thoát gốc và lãi, kể cả các chi phí sau khi đã áp dụng các biện pháp có thể có.
Việc phân hạng rủi ro danh mục cho vay này được dựa trên cơ sở những dữ liệu mà ngân hàng thu thập được và tầm quan trọng của từng dữ liệu như bảng cân đối kế toán và các thông số tài chính, kinh nghiệm, tính cách và độ tin cậy của người điều hành, lịch sử vay nợ của khách hàng, sự phụ thuộc của khách hàng vào các nhà cung ứng chủ yếu và khách hàng mua, mức độ rủi ro về ngành kinh doanh mà khách hàng đang thực hiện, những biến động trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, trình độ của những người lãnh đạo chủ chốt, chất lượng của các chiến lược kinh doanh trung dài hạn của khách hàng.
Sau khi xác định mức độ rủi ro của từng khách hàng, ngân hàng tiến hành đánh giá chất lượng của tài sản đảm bảo khoản vay (nguồn thu nợ thứ 2) để có nhận định hoàn chỉnh về khoản vay và hướng xử lý. Tài sản bảo đảm cũng được xếp thành 6 mức như sau:
- Tài sản đảm bảo loại A: là loại tài sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại bằng 130% của giá trị khoản vay.
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Hướng Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Của Chi Nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Thăng Bình
- Hoàn Thiện Công Tác Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng Của Chi Nhánh
- Hoàn Thiện Công Tác Kiểm Soát Nguồn Rủi Ro
- Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình - 14
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
- Tài sản đảm bảo loại B: là loại tài sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại từ 100% đến dưới 130% giá trị khoản vay.
- Tài sản đảm bảo loại C: là loại tài sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại từ 70% đến dưới 100% giá trị khoản vay.
- Tài sản đảm bảo loại D: là loại tài sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại từ 50% đến dưới 70% giá trị khoản vay.
- Tài sản đảm bảo loại E: là loại tài sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại dưới 50% của giá trị khoản vay.
Thứ hai: Giám sát danh mục cho vay. Được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau hoặc áp đồng thời các phương pháp như phương pháp dùng bảng so sánh, phương pháp dùng đồ thị, phương pháp kiểm tra tại chỗ. Qua kiểm tra, giám sát sẽ thấy rõ các dấu hiệu cảnh báo để có nhận định đầy đủ chất lượng của khoảng cho vay. Một số dấu hiệu biểu hiện của một khoản cho vay có vấn đề:
Nhóm 1: Các biểu hiện liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
Về tài khoản tiền gởi: Xuất hiện việc phát hành séc quá số dư, khó khăn trong thanh toán lương, gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán các món nợ đến hạn, sụt giảm về số dư trên tài khoản tiền gởi, thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau, không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí.
Về tài khoản tiền vay: Mức độ vay thường xuyên gia tăng, thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi, thường xuyên yêu cầu ngân hàng gia hạn nợ, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
Về phương thức tài chính: Sử dụng nhiều khoản tài trợ ngắn hạn cho nhu cầu dài hạn, chấp nhận các nguồn tài trợ đắt, giảm các khoản phải trả và tăng khoản phải
thu, các hệ số thanh toán biến động theo chiều hướng xấu, vốn điều lệ có chiều hướng sụt giảm.
Nhóm 2: Các biểu hiện liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng. Thường xuyên thay đổi cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành. Hệ thống quản trị luôn có những bất đồng về mục đích, phương pháp quản trị, điều hành. Việc hoạch định các chiến lược, kế hoạch được thực hiện bởi nhà quản trị ít hay không có kinh nghiệm, nhà quản trị tham gia quá sâu vào công việc thường nhật, việc thuyên chuyển nhân viên xảy ra thường xuyên, ít quan tâm đến lợi ích của các cổ đông và chủ nợ. Việc hoạch định các chiến lược, kế hoạch kém, thường xuyên xuất hiện các hành động nhất thời, không có khả năng ứng phó với những thay đổi. Đội ngũ kế cận yếu kém, quản lý có tính gia đình, cục bộ địa phương, vị trí quan trọng giao cho người chưa được đào tạo, huấn luyện đầy đủ mà dựa vào mối quan hệ với nhà quản trị. Có tranh chấp giữa hội đồng quản trị, giám đốc điều hành với các cổ đông, chính quyền địa phương, nhân viên, người cho vay, khách hàng. Xuất hiện các chi phí quản lý bất hợp lý như trang trí văn phòng, phương tiện đi lại đắt tiền.
Nhóm 3: Các biểu hiện liên quan đến ngành nghề kinh doanh
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Khách hàng bị ấn tượng bởi một khách hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc, Ban giám đốc cắt giảm lợi nhuận nhằm đạt được hợp đồng lớn.
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Không đúng lúc hoặc bị ám ảnh bởi sản phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác.
- Sự cấp bách không thích hợp như do áp lực nội bộ dẫn đến việc tung sản phẩm dịch vụ ra quá sớm, các hạn mức về thời gian kinh doanh không thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc.
Nhóm 4: Các biểu hiện liên quan đến vấn đề kỹ thuật và thương mại như khó khăn trong việc phát triển sản phẩm, thay đổi về lãi suất, tỷ giá, thị hiếu, kỹ thuật mới, mất nhà cung ứng, khách hàng lớn, xuất hiện thêm đối thủ cạnh tranh. Sự thay đổi cơ chế, chính sách của nhà nước, sự tác động của chính sách thuế, môi trường, điều kiện thành lập và hoạt động hay sản phẩm của khách hàng có tính thời vụ.
Nhóm 5: Các biểu hiện liên quan đến các thông tin tài chính, kế toán như chậm
trể, trì hoãn nộp báo cáo tài chính, số liệu tài chính không đầy đủ hoặc các chỉ tiêu tài chính cho thấy có sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên, tiền mặt giảm đột ngột, doanh số gia tăng nhưng không có lãi hay lãi ít, những thay đổi về tỷ lệ lãi gộp, lãi ròng trên doanh số bán, lượng hàng tồn kho tăng nhanh, phải thu tăng nhanh, thời gian nợ kéo dài, hoạt động kinh doanh bị thua lỗ, nguồn vốn không đủ trả nợ theo kế hoạch, làm đẹp bảng cân đối bằng cách tạo ra tài sản vô hình.
* Tích cực xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi đang tồn đọng
Để hạn chế RRTD, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, song song với thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế phát sinh nợ quá hạn mới thì việc xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi đang tồn đọng thiết nghĩ cũng rất quan trọng.
Việc đầu tiên là phải phân tích từng loại nợ quá hạn, nợ khó đòi để tìm hiểu rõ nguyên nhân phát sinh, trên cơ sở đó phân thành nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn khó đòi mà phải xử lý bằng tài sản thế chấp. Từ đó chi nhánh Thăng Bình đề ra những biện pháp như:
- Đối với các khoản nợ có khả năng thu hồi. Trong loại này, chi nhánh Thăng Bình cũng cần phân loại chi tiết trên cơ sở nguyên nhân gây ra nợ quá hạn: Đối với nhưũng khách hàng do người vay có khó khăn về trả nợ do nguyên nhân chủ quan, nhưng còn vật tư hàng hoá, đơn vị vẫn còn hoạt động nhưng năng lực giảm. Chi nhánh Thăng Bình nên đôn đốc họ bán hàng hoá hoặc tìm nguồn khác để trả nợ, làm sao thu hồi vốn được nhanh. Đối với loại khách hàng này sau khi thu hồi nợ, chi nhánh Thăng Bình nên xem xét lại việc thẩm định, các yêu cầu khi cho vay vốn, điều chỉnh lại hạn mức tín dụng, thậm chí từ chối cho vay tiếp. Đối với các doanh nghiệp có uy tín trong quan hệ tín dụng nhưng bị thua lỗ do nguyên nhân khách quan dẫn tới nợ quá hạn, chi nhánh Thăng Bình nên xem xét đánh giá lại thực chất hoạt động SXKD, tìm ra biện pháp khôi phục và nếu tình hình SXKD của đơn vị đó còn triển vọng ngân hàng nên áp dụng biện pháp “nuôi nợ để thu nợ” bằng cách tiếp tục cho đơn vị đó vay vốn để khôi phục sản xuất, tạo điều kiện trả nợ ngân hàng. Trong trường hợp này chi nhánh Thăng Bình nên quan tâm và tham gia sâu hơn vào hoạt động SXKD của doanh nghiệp bằng việc làm cố vấn cho đơn vị trong việc quyết định sản phẩm sản xuất, hạ giá bán, phát triển mạng lưới tiêu thụ, tăng cường chiến dịch quảng cáo...đồng thời giám sát chặt chẽ
hoạt động bán hàng của doanh nghiệp để thu hồi nợ. Đối với doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích thì phải tìm cách thu hồi vốn ngay và khi có biểu hiện chây ì, lừa đảo thì kiên quyết chuyển hồ sơ sang các cơ quan pháp luật để phối hợp giải quyết.
- Đối với những khoản nợ không có khả năng thanh toán mà phải xử lý bằng tài sản thế chấp.
Tìm các khách hàng có khả năng về tài chính nhận lại nợ của khách hàng khó khăn để tiếp tục khai thác hiệu quả tài sản đảm bảo khả năng trả nợ
Chi nhánh Thăng Bình cần rà soát tài sản bảo đảm, tình trạng tài sản, hồ sơ pháp lý để có thể phát mại tài sản thu hồi vốn.
Phối hợp với các Bộ, Ban, Ngành cho tiến hành thanh lý, phát mại các tài sản bảo đảm cho vay theo chỉ định để thu hồi vốn.
Trong trường hợp tài sản phát mại không đủ thu hồi vốn thì buộc khách hàng phải trả tiếp phần còn lại thông qua việc bán tiếp tài sản, nếu không chi nhánh Thăng Bình có thể tuyên bố phá sản.
3.2.3.3. Đa dạng hoá các hoạt động cho vay và đầu tư, đa dạng hoá khách hàng.
- Đa dạng hoá các hoạt động cho vay và đầu tư là một biện pháp hữu hiệu nhằm phân tán rủi ro, được các ngân hàng tiên tiến trên thế giới áp dụng có hiệu quả và một phần không nhỏ thu nhập của các ngân hàng này là từ các dich vụ hưởng hoa hồng đem lại. Các ngân hàng nước ta hiện nay đến 90% tài sản có là đầu tư tín dụng trực tiếp nên khả năng rủi ro rất cao. Vì thế muốn hạn chế rủi ro thì việc đa dạng hoá trong cho vay và đầu tư cần được coi trọng.
Đồng thời, chi nhánh Thăng Bình nên xúc tiến việc mở rộng và phát triển các dịch vụ như thanh toán bằng thẻ, các loại séc... cũng như các tiện ích mà các phương tiện thanh toán này mang lại, qua đó nâng cao thu nhập từ các hoạt động này.
- Đa dạng hoá khách hàng: Mở rộng cho vay đối với mọi thành phần kinh tế, mọi đối tượng khách hàng, tránh việc cho vay quá mức đối với một khách hàng, hạn chế rủi ro khi khách hàng gặp rủi ro không trả được nợ.
Ngoài việc cho vay trực tiếp đến các doanh nghiệp, HTX, HND, trang trại,.., (Ngân hàng và các đơn vị vay vốn trực tiếp kết hợp đồng tín dụng với nhau) như đã thực hiện, ngân hàng cần mở rộng và phát triển thêm một số hình thức cho vay sau đối
với các HND:
- Thứ nhất: Đẩy mạnh các hình thức cho vay gián tiếp thông qua các trung gian là tổ, nhóm, hội, đoàn thể tín chấp. Hình thức cho vay thông qua tổ mang lại nhiều tiện ích, nâng cao ý thức trách nhiệm giám sát, giúp đỡ lẫn nhau, chấn chỉnh các thành viên thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Thông qua sinh hoạt tổ sẽ tạo điều kiện cho các HND có thêm kiến thức khoa học kỹ thuật, có kinh nghiệm trong nuôi trồng và tham khảo được các mô hình nuôi trồng điển hình. Đây cũng là hình thức giúp cho ngân hàng giảm tải cho CBTD trong việc đôn đốc khách hàng sử dụng vốn vay, trả lãi và gốc cho ngân hàng.
- Thứ hai: Phát triển hình thức cho vay thông qua các nhà cung ứng vật tư, phân bón , giống cây trồng, vật nuôi. Hay nói cách khác, ngân hàng chủ động tìm sự liên kết giữa nhà cung ứng và nhà sản xuất. Trên cơ sở các mối liên kết đã được thiết lập, ngân hàng thực hiện quy trình cho vay khép kín như sau:
+ Ngân hàng cho doanh nghiệp vay để mở rộng sản xuất, cung cấp máy móc, thiết bị, con giống, cây giống, phân bón, thức ăn,... cho nông dân.
+ Ngân hàng thu nợ của doanh nghiệp để cho nông dân vay dưới hình thức hiện vật bằng các sản phẩm của doanh nghiệp như máy móc, vật tư...
+ Ngân hàng thu nợ của nông dân để cho vay các doanh nghiệp chế biến nông
sản.
Trong mối quan hệ này, người vay là những HND nhưng ngân hàng không cấp
tiền mặt cho người vay mà thanh toán tiền trực tiếp cho nhà cung ứng. Hình thức này sẽ giúp cho vốn vay của ngân hàng được sử dụng đúng mục đích, đảm bảo tính gắn kết giữa sản xuất với thị trường, tăng tính ổn định, tiết kiệm chi phí và hạn chế rủi ro tín dụng và mang lại hiệu quả cho các bên.
- Thứ ba: Phát triển hình thức cấp vốn uỷ thác thông qua quỹ tín dụng nhân dân, thông qua nhà chế biến các sản phẩm đầu ra của người sản xuất hoặc các HTX thu mua nông sản thực phẩm của nhà nông. Điều kiện áp dụng hình thức cho vay này khi các HND cung cấp các sản phẩm chính và ổn định cho các nhà chế biến hay HTX đó. Khi áp dụng hình thức này, lãi suất cho vay phải có mức chung, các tổ chức nhận uỷ thác không được phép tăng lãi suất, ngân hàng phải trả phí hoa hồng cho các tổ
chức nhận uỷ thác.
Để áp dụng các hình thức cho vay trên, ngân hàng cần phải thực phân loại các hộ theo một số tiêu thức như quy mô vốn, đất đai, kinh nghiệm, ngành nghề,.., để từ đó áp dụng hình thức cho vay phù hợp.
3.2.4. Vấn đề tài trợ rủi ro tín dụng của chi nhánh Thăng Bình
3.2.4.1. Công tác khắc phục rủi ro
* Công tác trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng
Để khắc phục RRTD, cần thiết phải trích lập quỹ dự phòng. Để thực hiện đúng đối tượng, có hiệu quả, chi nhánh Thăng Bình cần phải thực hiện tốt 1 số vấn đề sau:
- Thực hiện phân loại tài sản có và trích lập quỹ dự phòng rủi ro đúng quy định. Hiện nay, việc phân loại tài sản có và trích dự phòng rủi ro theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; tuy nhiên, chương trình giao dịch của chi nhánh Thăng Bình còn lạc hậu, việc chuyển nợ đến hạn và trạng thái nợ phải thực hiện bằng phương pháp thủ công nên thực hiện phân loại nợ chưa kịp thời dẫn đến việc trích dự phòng rủi ro chưa đúng quy định. Do vậy, Ban lãnh đạo cần phải quán triệt cho bộ phận kế toán thường xuyên theo dõi các khoản nợ đến hạn, nợ gia hạn và điều chỉnh kỳ hạn nợ, trạng thái nợ để chuyển đúng vào các nhóm theo văn bản hướng dẫn và thực hiện trích dự phòng rủi ro theo tỷ lệ quy định.
- Rà soát lại các khoản nợ khó đòi có khả năng bị tổn thất để xác định đúng đối tượng được xử lý bù đắp rủi ro. Các khoản nợ thuộc nhóm 5 được quy định tại Điều 6 ban hành kèm theo Quyết định 493, tiến hành lập hồ sơ theo quy định trình Hội đồng xử lý rủi ro cấp trên phê duyệt. Việc làm này phải được triển khai kịp thời; bởi vì, khi các khoản nợ này còn nằm trên tài khoản nợ quá hạn thì phải chịu phí sử dụng vốn, trong khi đó nguồn xử lý rủi ro đã có mà không được trả phí. Vấn để này, trong thời gian qua chi nhánh Thăng Bình chưa tính tới.
- áp dụng triệt để các biện pháp tận thu. Cần quán triệt đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng là việc sử dụng nguồn dự phòng để xử lý rủi ro không phải là xoá nợ cho khách hàng. Do vậy, các khoản nợ được xử lý rủi ro phải được quan tâm, thường xuyên theo dõi và phân loại nợ theo khả năng thu hồi để có biện pháp thích hợp. Tiến hành ký hợp đồng với các cơ quan chức năng để uỷ quyền thu hồi nợ và chi hoa hồng
theo tỷ lệ quy định. Đối với các con nợ có khả năng thu hồi, nhưng cố tình trốn tránh nhiệm trả nợ thì khởi kiện ra toà. Đây là khoản thu nhằm bổ sung nguồn tài chính của chi nhánh Thăng Bình; tuy nhiên, trong thời gian qua vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức.
3.2.4.2. Công tác chuyển giao rủi ro
* Tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay: Việc cho các DNNN vay trong khi tài sản đảm bảo của các doanh nghiệp này luôn bé hơn vốn vay đã gây không ít khó khăn cho ngân hàng trong việc giảm thiểu rủi ro cho vay, bên cạnh đó không nâng cao được trách nhiệm trả nợ của các DNNN, làm cho tỉ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi của thành phần kinh tế này gia tăng, gây nên rủi ro cho vay của ngân hàng. Do vậy, vấn đề cần làm hiện nay của chi nhánh Thăng Bình là phải thay đổi cơ chế cho vay với các DNNN, kiên quyết thực hiện việc bảo đảm tiền vay bằng các hình thức thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, tránh tình trạng nương tay, buông lỏng đối với các doanh nghiệp này. Mặt khác giảm dần dư nợ nếu khách hàng không đáp ứng đủ điều kiện tài sản đảm bảo theo quy định của ngân hàng.
Đối với việc nhận tài sản đảm bảo, chi nhánh Thăng Bình cần thường xuyên xem xét tính hợp lệ, hợp pháp và tính thị trường của tài sản đó. Linh hoạt trong phạm vi cho phép đối với doanh nghiệp có tín nhiệm, kinh doanh có hiệu quả.
- Phối hợp với các công ty bảo hiểm để đưa thêm điều khoản về bảo hiểm vật nuôi, cây trồng trong SXNN, bảo hiểm tàu thuyền trong nghề đánh bắt.
Ngoài rủi ro về dịch bệnh, các rủi ro thiên tai, sự biến động về giá cả cũng là những mối quan tâm rất lớn của người SXNN. Hơn nữa, khi các rủi ro này xuất hiện, không chỉ ảnh hưởng đến một vài hộ mà ảnh hưởng đến hầu hết các hộ SXKD và làm cho họ không thể chống đỡ nổi, tất yếu sẽ dẫn đến mất khả năng trả nợ ngân hàng. Vì vậy, việc triển khai các loại hình bảo hiểm này sẽ giúp cho người SXNN chủ động bù đắp chi phí, ổn định đời sống của họ và khôi phục hoạt động sản xuất, khuyến khích họ đầu tư kỹ thuật để phát triển SXNN. Tuy nhiên, nước ta hiện nay, các loại hình bảo hiểm nông nghiệp chưa phát triển vì nhiều lý do khác nhau nên trước mắt, chi nhánh Thăng Bình cần phối hợp với các công ty bảo hiểm để triển khai các loại hình bảo hiểm này. Qua đó bắt buộc các khách hàng vay vốn Ngân hàng phải tham gia bảo hiểm