Hoàn Thiện Công Tác Kiểm Soát Nguồn Rủi Ro

doanh nghiệp có quan hệ tín dụng theo đúng quy định và coi đây là một điều kiện bắt buộc đối với các doanh nghiệp để được tiếp tục có quan hệ tín dụng với chi nhánh Thăng Bình.

+ Ngoài ra, để nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác, CBTD cần phải biết cách thâm nhập, gần giũ với khách hàng, tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan có liên quan và phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể trong quá trình cho vay HSX bởi họ là người trực tiếp sống với dân, biết rõ toàn diện về con người, phong tục tập quán địa phương.

+ Đầu tư hệ thống hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Để có thể đáp ứng yêu cầu hội nhập và quản lý RRTD tốt hơn, nhất là công tác thu thập và lưu trữ thông tin, chi nhánh Thăng Bình cần hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Qua đó, chi nhánh Thăng Bình trong có thể tìm kiếm, lưu trữ và thông tin cho nhau về tình hình hoạt động của khách hàng cùng quan hệ tín dụng trong hệ thống một cách nhanh nhất. Các ngân hàng có thể phối hợp để cho vay và quản lý khoản vay đối với một khách hàng, tránh việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một công trình, một dự án mà không thông qua đồng tài trợ, dẫn đến rủi ro trong hoàn trả nợ. Đây là tình trạng không phải là hiếm, đã xảy ra trên địa bàn Quảng Nam hiện nay.

+ Nội dung thông tin cần thu thập không chỉ dùng lại ở năng lực pháp lý, tài sản đảm bảo, phương án kinh doanh, uy tín... của người vay mà nội dung này phải phản ánh toàn diện năng lực thực sự của khách hàng ở hiện tại, triển vọng của người vay trong tương lai cũng như các rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải khi ra quyết định cho vay.

Sau khi đã thu thập các nguồn thông tin, CBTD phải sàng lọc nguồn thông tin đã thu thập để phân tích, đánh giá khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của vốn vay. Trên cơ sở đó ra quyết định cho vay hay từ chối cũng như các quyết định ứng phó kịp thời sau khi cho vay nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra. CBTD cần thực hiện đúng nguyên tắc khi thu thập thông tin tín dụng: "Nếu ngân hàng có thông tin đầy đủ, chuẩn xác thì không cần phải có một bộ óc thông minh cũng có thể quyết định được. Vì vậy, cần phải bỏ nhiều công sức để tìm kiếm thông tin”.

3.2.3.2. Hoàn thiện công tác kiểm soát nguồn rủi ro

* Kiểm soát nguồn rủi ro do khách hàng. Để thực hiện kiểm soát nguồn rủi ro do khách hàng, chi nhánh Thăng Bình cần phải thực hiện tốt công tác phân tích và chủ động lựa chọn khách hàng quan hệ, xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.

Hiện nay, công tác tìm kiếm và đặt quan hệ với khách hàng của chi nhánh Thăng Bình được đánh giá là khá thận trọng. Kết quả là chi nhánh Thăng Bình đã khống chế được tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng đây cũng lại chính là nguyên nhân làm cho việc tăng trưởng dư nợ của ngân hàng tương đối chậm. Vì vậy, chi nhánh Thăng Bình cần phải rà soát và đánh giá lại tất cả các khách hàng trên địa bàn đang có quan hệ với chi nhánh và cả những khách hàng tiềm năng mà chi nhánh cần hướng tới. Việc phân tích đánh giá khách hàng dựa trên các nội dung như tư cách, uy tín, năng lực hoạt động và khả năng tài chính.

Trên cơ sở các kết quả phân tích, đánh giá khách hàng, chi nhánh Thăng Bình thực hiện phân loại khách hàng theo các tiêu chí như đã đưa ra trong Sổ tay tín dụng của ngân hàng, từ đó từng bước thanh lọc những khách hàng yếu kém, thu hút và tăng cường cho vay những khách hàng tốt. Với số lượng doanh nghiệp hiện có trên địa bàn, việc phân loại của chi nhánh Thăng Bình cũng không gặp phải nhiều khó khăn. Việc phân loại doanh nghiệp sẽ giúp chi nhánh Thăng Bình xây dựng được chiến lược cho vay riêng cho từng loại khách hàng, tạo cơ sở cho CBTD có định hướng khi quyết định cho vay, giảm thiểu được rủi ro và mở rộng quy mô cho vay.

Ngoài ra, để hạn chế những sai sót mang tính chất chủ quan, cảm nhận của CBTD trong quá trình lựa chọn khách hàng và định hướng cho CBTD có quyết định đúng, cần phải chú ý một số nguyên tắc lựa chọn sau đây:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

- Khi lựa chọn khách hàng, ngân hàng cần phải chú ý chọn khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, làm ăn có uy tín và sẵn lòng trả nợ đúng hạn. Ngân hàng có thể xem xét quan hệ kinh doanh của khách hàng với các tổ chức kinh tế qua nhiều năm để có cơ sở đánh giá mức độ uy tín của khách hàng.

- Khi lựa chọn khách hàng, ngân hàng phải tiến hành một cách chủ động chứ không bị động ngồi chờ khách hàng tìm đến và việc lựa chọn này phải tiến hành cho mọi thành phần kinh tế, tránh tình trạng chỉ xem xét các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn doanh nghiệp quốc doanh cứ thế mà cho vay mà không xem xét doanh

Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình - 12

nghiệp đó làm ăn như thế nào.

- Khi lựa chọn khách hàng để đặt quan hệ tín dụng, cần phải có tiêu chí để lựa chọn và các tiêu chí này phải xoáy mạnh vào mục tiêu trọng tâm của chính sách tín dụng là lợi nhuận, an toàn và hiệu quả, tùy thuộc vào từng đối tượng vay vốn, mục đích vay vốn mà tiêu chí khác nhau đồng thời mỗi một tiêu chí phải có hệ số khác nhau về mức độ quan trọng. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, không nên đặt nặng vấn đề tài sản thế chấp như hiện nay. Nếu chỉ có tài sản thế chấp không thôi vẫn chưa đủ vì khi khách hàng làm ăn không hiệu quả sẽ dẫn đến việc ngân hàng bị mất vốn hay bị ứ đọng vốn do việc giải quyết tài sản thế chấp hiện nay ở nước ta không dễ dàng. Ngược lại, một số khách hàng không có tài sản thế chấp nhưng có dự án khả thi, có uy tín cao, làm ăn có hiệu quả thì chi nhánh Thăng Bình cũng nên mạnh dạn cho vay. Vì vậy, vấn đề không phải là có tài sản thế chấp hay không mà là hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng, uy tín trong kinh doanh cũng như sự sẵn lòng trả nợ như thế nào. Có như vậy, chi nhánh mới chủ động chọn cho mình các khách có “chất lượng” để đặt quan hệ, chứ không quá e dè, chặt chẽ dẫn đến co cụm tín dụng.

* Kiểm soát nguồn rủi ro do nhân viên

Có thể nói, nhân lực là một trong những nguồn lực chính, quan trọng nhất quyết định đên thành bại của bất cứ tổ chức kinh doanh nào. Đối với các NHTM, yếu tố này càng có ý nghĩa lớn hơn vì:

- Trong hoạt động ngân hàng, cán bộ ngân hàng vừa là người trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, vừa là người quan hệ trực tiếp với khách hàng. Vì vậy mối quan hệ giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng quyết định đến chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng.

- Trong điều kiện kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, các phương pháp phân tích, đánh giá khách hàng chủ yếu là phương pháp định tính nên hiệu quả của công tác này phụ thuộc chủ yếu vào con người.

Vì vậy, việc tiêu chuẩn hoá cán bộ, đặc biệt là CBTD, giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh có thể nói là những vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau. Thực tế kinh doanh tại chi nhánh Thăng Bình cho thấy, rủi ro cho vay trong ngân hàng phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng đội ngũ CBTD, từ việc chấp hành cơ chế

chính sách đến việc thẩm định dự án, xét duyệt hồ sơ, quyết định cho vay, kiểm tra việc sử dụng vốn vay, thu nợ nói chung thì mọi đúng hay sai, thành công hay thất bại của các dự án cho vay ngoài nguyên nhân khách quan đều có nhân tố chủ quan của con người với tư cách là chủ thể trong quan hệ cho vay. Đương nhiên trong đó có yếu tố chủ quan cố ý, vì mục đích tư lợi nhưng cũng có yếu tố trình độ khả năng bất cập không thể hoặc chưa làm được. Tiến hành tiêu chuẩn hoá CBTD, việc này phải thực hiện từ khâu tuyển chọn, sắp xếp, bố trí cán bộ theo đúng chức năng, sở trường của họ. Những cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn phải tiến hành đào tạo và đào tạo lại để cập nhật những kiến thức mới. Nhìn chung, một người CBTD hiện nay phải đáp ứng được những tiêu chuẩn sau:

- Có phẩm chất đạo đức tốt, đây là một tiêu chuẩn quan trọng đối với CBTD, quyết định đến vấn đề rủi ro đạo đức trong kinh doanh.

- Phải được đào tạo chính quy tại các trường đại học có uy tín trong và ngoài nước.

- Thường xuyên nghiên cứu, học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, để hiểu biết thêm về cơ chế, chính sách, chế độ của ngành, đường lối mục tiêu phát triển của đất nước và của địa phương.

- Phải sâu sát thực tế, có hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, có hiểu biết về pháp luật, có năng khiếu trong việc kiểm tra để phát hiện hành vi lừa đảo của khách hàng hoặc những biểu hiện thiếu trung thực bằng các phương pháp trắc nghiệm tâm lý, thăm dò, gợi hỏi.

- Có khả năng ngoại ngữ, tin học và sức khoẻ để phục vụ cho việc nghiên cứu tài liệu, giao dịch và sử dụng máy tính trong việc tính toán, thẩm định dự án.

- Hiểu biết về xã hội và khả năng giao tiếp, yếu tố giúp cho khách hàng và ngân hàng hiểu nhau hơn, làm cho khách hàng có thiện cảm với ngân hàng, gắn bó với ngân hàng. Với khả năng giao tiếp, CBTD tìm hiểu thêm được nhiều thông tin về khách hàng phục vụ trong xử lý nghiệp vụ.

Vì vậy, để thực hiện hoạt động kinh doanh tín dụng tốt, mở rộng cho vay gắn với việc giảm thiểu rủi ro, chi nhánh Thăng Bình cần phải có cơ chế tuyển dụng cũng như bố trí, sử dụng con người một cách hợp lý hơn, cụ thể như sau:

* Vấn đề tuyển dụng. Để có đội ngũ cán bộ giỏi đáp ứng được các yêu cầu trên,

chi nhánh Thăng Bình phải thực hiện ngay từ khâu tuyển chọn. Cần phải chọn được CBTD có đạo đức, trình độ chuyên môn tốt, được đào tạo bài bản, hiểu biết về nhiều lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Do vậy, không nhất thiết phải chọn sinh viên ngành ngân hàng, được đào tạo ngành tín dụng và cũng cần phải có chính sách thu hút tuyển dụng những sinh viên khá giỏi, có kiến thức vững vàng và có năng khiếu về lĩnh vực này, sau đó gởi đi đào tạo tiếp tục. Vì một CBTD giỏi không chỉ đơn thuần là biết cho vay vốn mà là người có khả năng tư vấn cho khách hàng về khả năng SXKD, có như vậy, mới đáp ứng được những yêu cầu hiện nay của người cán bộ ngân hàng trực tiếp kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng.

* Vấn đề bố trí nhân lực. Cần phải có sự bố trí nhân lực hợp lý, sắp xếp lại và thay thế dần những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu ở khâu tín dụng bằng những cán bộ giỏi có trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức tốt. Trong vấn đề bố trí nhân lực hiện nay, phần lớn chi nhánh Thăng Bình thực hiện phân công CBTD phụ trách chỉ dựa trên cơ sở khách hàng, và phân theo địa bàn. Như vậy, điều này sẽ rất khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin tín dụng liên quan đến nhiều đối tượng khách hàng, hoạt động SXKD trên nhiều lĩnh vực. Ví dụ, một cán bộ cho vay vừa phải cho vay kinh doanh, thương mại, vừa cho vay sản xuất nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi nên dù có tài đến đâu họ cũng sẽ không thể hiểu biết sâu sắc lĩnh vực kinh doanh dự định đầu tư để làm tốt công tác đánh giá khách hàng. Do vậy, cần phải chuyên môn hóa đối với CBTD. Việc chuyên môn hóa được thực hiện như sau:

Phân chia khách hàng của chi nhánh theo từng nhóm có đặc điểm riêng trên cơ sở đó căn cứ vào năng lực sở trường và kinh nghiệm của từng CBTD để phân công cho mỗi người thực hiện cho vay đối với mỗi loại khách hàng nhất định, thậm chí có thế tuyển dụng nhân viên về lĩnh vực đó hay gởi đào tạo để giúp họ có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực mà họ phụ trách.

Việc thay đổi, sắp xếp, phân công lại CBTD cũng cần phải hạn chế để tạo điều kiện cho họ có những hiểu biết khách hàng một cách sâu sắc thông qua thông tin “mắt thấy, tai nghe” từ cơ sở kinh doanh của khách hàng, những thông tin hình thành bằng linh cảm và cả trực giác của CBTD trong quá trình tiếp xúc, quan hệ với khách hàng.

* Vấn đề đãi ngộ, thưởng phạt. Chi nhánh Thăng Bình cũng cần có một chế độ đãi ngộ xứng đáng về lương, thưởng đối với các CBTD để khuyến khích, động viên kịp thời những cán bộ có thành tích tốt trong công tác, tránh tình trạng bình quân chủ nghĩa trong thu nhập vì công tác tín dụng thực sự nặng nề, lắm rủi ro nên đòi hỏi mỗi CBTD phải hết sức cố gắng, nổ lực.

Việc gắn trách nhiệm và quyền lợi thích đáng đối với CBTD sẽ giúp cho chi nhánh Thăng Bình mở rộng tín dụng, đồng thời chất lượng của các khoản tín dụng cũng sẽ được nâng cao. Điều này, hiện nay chi nhánh Thăng Bình cũng đã thực hiện thông qua cơ chế khoán dư nợ đối với CBTD. Tuy nhiên, quyền lợi đối với CBTD chưa nhiều nhưng trách nhiệm rất lớn, thậm chí là trách nhiệm hình sự đã tạo ra tâm lý “sợ trách mhiệm”. Nếu làm tốt, toàn ngân hàng được hưởng, nếu vỡ nợ, trách nhiệm sẽ dồn lên vai CBTD. Chính vì vậy, họ rất thận trọng trong khi xét duyệt cho vay, thậm chí là thận trọng trên mức cần thiết và hầu như chỉ xét cho vay đối với những khách hàng có tài sản thế chấp hoặc cũng chỉ quan tâm đến các vấn đề liên quan đến tài sản thế chấp như giấy tờ tài sản thế chấp có đầy đủ, hợp lệ không... Vì vậy, chi nhánh Thăng Bình cần phải nâng cao hơn nữa quyền lợi của CBTD và có chế độ bình bầu, khen thưởng thích đáng đồng thời quy trách nhiệm đối với CBTD, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng quy mức trách nhiệm đối với từng CBTD làm mất vốn của ngân hàng, nhưng không nên quy trách nhiệm hình sự mà quy trách nhiệm hành chính, buộc CBTD nào làm mất vốn của ngân hàng phải bồi thường. Có như vậy, sẽ giảm áp lực trách nhiệm để mở rộng dư nợ mà vẫn nâng cao được chất lượng của các khoản cho vay.

* Vấn đề bồi dưỡng cán bộ. CBTD cần phải thường xuyên được bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, phải nắm bắt kịp thời những chủ trương, đường lối, chính sách, chế độ, thể lệ của ngành và vận dụng một cách linh hoạt, hiệu quả khi cho vay. Cần phải thường xuyên tập huấn cho CBTD, có những buổi giới thiệu kinh nghiệm của những CBTD điển hình. Bên cạnh đó cũng nên mời các chuyên gia pháp lý đến giảng, trao đổi kinh nghiệm trong các tình huống, vụ án liên quan đến lĩnh vực ngân hàng để CBTD có thêm kinh nghiệm, hiểu thêm về pháp luật, quyết định cho vay được an toàn.

Ngoài ra, phải nâng cao ý thức trách nhiệm cho mỗi CBTD, yêu cầu các CBTD phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát khách hàng ngay sau khi cho vay và việc này phải được đôn đốc và giám sát thường xuyên, Chi nhánh phải thực hiện tốt vấn đề này bên cạnh việc tiêu chuẩn hoá CBTD. Bởi trình độ CBTD chỉ phát huy hiệu quả trong quá trình xét duyệt cho vay. Tuy nhiên, một khoản vay được coi là tốt trong quá trình thẩm định vẫn có thể trở thành một khoản vay xấu nếu thiếu sự giám sát chặt chẽ của CBTD vì sự biến đổi bất thường của môi trường kinh tế cũng như quá trình SXKD của khách hàng mà trong quá trình thẩm định không thể lường trước được.

3.2.3.2. Hoàn thiện công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng

* Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ cần được tiến hành theo hai hướng: Giám sát qúa trình vận động của vốn tín dụng từ khi thẩm định, cho vay tới khi thu hồi cả gốc và lãi và kiểm tra, kiểm soát việc làm của cán bộ lãnh đạo và CBTD của chi nhánh Thăng Bình.

- Kiểm soát tại ngân hàng. Hoạt động kiểm soát nội bộ nên tập trung vào việc kiểm tra, giám sát quá trình thẩm định tín dụng, giám sát của các CBTD có đúng với trình tự nghiệp vụ quy định hay không, phát hiện những sai sót để ngăn chặn kịp thời, hạn chế những thiệt hại về sau. Do đó, cần thực hiện những biện pháp sau:

Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng để bổ sung cho phòng kiểm soát.

Trong quá trình kiểm tra hoạt động tín dụng có thể tăng cường cán bộ làm trực tiếp từ bộ phận tín dụng hoặc thẩm định và quản lý tín dụng cùng phối hợp kiểm tra.

Thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ phòng kiểm soát.

Cần quy định trách nhiệm đối với cán bộ kiểm soát, có chế độ khuyến khích thưởng phạt để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát.

Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra, áp dụng linh hoạt các biện pháp kiểm tra tuỳ thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích kiểm tra.

Tăng cường số cuộc kiểm tra, thực hiện kiểm tra thường xuyên theo hàng tháng, quý. Nội dung kiểm tra phải toàn diện nhằm phát hiện những sai sót của CBTD trong

quá trình thực hiện và phải xử lý dứt điểm từng trường hợp cụ thể.

- Kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Việc tăng cường hiệu lực của công tác kiểm tra, kiểm soát của chi nhánh Thăng Bình cần được tiến hành theo các bước sau:

+ Kiểm tra trước khi cho vay: Kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các chứng từ liên quan đến khoản vay và mẫu dấu chữ ký, những người liên quan, các loại văn bản đã khớp đúng chưa.

+ Kiểm tra trong khi cho vay: Kiểm tra việc phát tiền vay, chuyển tiền vay thanh toán cho các đối tác khách hàng, xem xét việc vay vốn có đúng và phù hợp với mục đích xin vay hay không.

+ Kiểm tra sau khi vay: Kiểm tra việc sử dụng vốn vay, ngăn ngừa người vay sử dụng vốn sai mục đích, kiểm tra tài sản đảm bảo món vay. Kiểm tra khả năng thu hồi nợ trên cơ sở theo dõi quá trình luân chuyển vật tư hàng hoá hình thành từ món vay và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông qua kiểm soát sau, kịp thời phát hiện những khoản nợ có khả năng khó hoàn trả đúng hạn, trên cơ sở đó đôn đốc kịp thời, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay nhằm thu hồi nợ đúng kỳ hạn và nắm được khả năng thực tế của doanh nghiệp. Từ đó làm cơ sở cho việc quyết định có cho vay các khoản vay mới hay không.

Tóm lại, tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của chi nhánh Thăng Bình. Tất cả CBTD cũng như ban lãnh đạo ngân hàng phải nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đến công tác này thì RRTD mới được giảm thấp, chất lượng của danh mục cho vay mới thực sự được nâng lên.

* Tăng cường công tác phân hạng và giám sát danh mục các khoản tín dụng

Trong suốt quá trình cho vay, ngân hàng cần phải giám sát danh mục các khoản cho vay nhằm có những hành động kịp thời khi có một vấn đề phát sinh đối với các khoản cho vay. Để giám sát các khoản cho vay cần phải:

Thứ nhất: Phân hạng rủi ro danh mục cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay dựa trên việc ước tính mức độ rủi ro tiềm tàng của từng khoản cho vay trong danh mục cho vay. Việc xếp hạng này cho phép ngân hàng có nhận định chung về các khoản cho

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí