nông thôn ngày càng phát triển. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, diện tích lúa hàng năm luôn ổn định khoảng 1.105 ha, đạt sản lượng trên 4.370 tấn.
Song song với việc phát triển sản xuất nông nghiệp của xã, được sự quan tâm hỗ trợ của tỉnh, huyện, chính quyền địa phương đã đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng thiết yếu: xây dựng đường điện trung thế một pha, nâng cấp lưới điện một pha lên ba pha, hạ thế vào khu dân cư, xây dựng đường tráng nhựa, đường đan, cầu giao thông nông thôn… phục vụ nhu cầu sản xuất, góp phần đưa bộ mặt nông thôn ngày một đổi mới.
Tuy nhiên, xã vẫn còn nghèo và phần lớn là người dân tộc Khmer (chiếm gần 75 % dân số của xã), hộ nghèo còn cao (chiếm 38,24 % tổng số hộ toàn xã). Sản xuất nông nghiệp còn mang tính độc canh, chi phí sản xuất còn cao, trình độ khoa học kĩ thuật còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao, khả năng cạnh tranh thị trường còn kém nên giá trị và hiệu quả sản xuất, thu nhập của người dân còn thấp chưa tương xứng tiềm năng và lợi thế hiện có của xã.
Ngoài ra, là xã vùng sâu nên việc đi lại còn khó khăn, trình độ dân cư không đồng đều nên khả năng áp dụng khoa học kĩ thuật còn hạn chế, cho nên đời sống người dân còn khá vất vả. Bên cạnh đó còn một số bộ phận lao động trong địa phương thiếu việc làm và không việc làm còn khá lớn, hàng năm số lao động đến tuổi từ 150 – 250 người tạo nên một áp lực lớn trong việc giải quyết việc làm. Với diện tích đất tự nhiên là 1.236,16 ha, đất nông nghiệp 1.129,75 ha chiếm 91,39 % diện tích đất tự nhiên, đất trồng lúa 1.067 ha chiếm 86,32 % diện tích đất tự nhiên, đất trồng trúc trên 15 ha. Sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ trọng khoảng 90 % trong cơ cấu kinh tế chung, còn lại là sản xuất ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy cần có định hướng chuyển đổi cơ cấu sản xuất hợp lí, nhất là trong việc phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp.
Xuất phát từ tình hình trên và với lợi thế của huyện Trà Cú nói chung, xã Đại An nói riêng thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông ngư nghiệp và phát triển nông thôn, ngoài việc tập trung chuyển đổi cơ cấu sản xuất cho phù hợp
với điều kiện tự nhiên, xã còn chú trọng phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là làng nghề đan đát từ tre trúc, đây là thế mạnh và tiềm năng phát triển lớn của xã. Làng nghề này đã có từ lâu, nhưng đến cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX sản phẩm của làng nghề không chỉ phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của người dân, mà còn được đem ra thị trường tiêu thụ mạnh, từ đó làng nghề phát triển hơn. Nếu làng nghề này phát triển mạnh sẽ thu hút lớn lực lượng lao động, tăng thu nhập cho người dân địa phương, góp phần phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Làng nghề đan đát xã Đại An tập trung tại các ấp Giồng Lớn A, Giồng Đình, Trà Kha, Mé Rạch E, Cây Da, Xà Lôn, Mé Rạch B. Trên địa bàn xã hiện có 23 tổ hợp tác đan đát với 649 hộ sản xuất, 01 cơ sở sản xuất, 01 HTX, số lao động tham gia làm nghề là 2.513 lao động. Ngoài ra còn tạo việc làm gián tiếp cho hàng trăm lao động khác trong lĩnh vực thu mua, vận chuyển… Thu nhập bình quân của người lao động từ 900.000 đến 1.025.000 đồng/người/tháng, tạo ra 10.000.000 sản phẩm, đóng góp vào giá trị sản phẩm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của xã đạt 16 tỉ đồng, góp phần tích cực trong mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Bên cạnh đó, tạo được giá trị sản phẩm có kim ngạch từ 2 – 3 triệu USD/năm.
Nguồn vốn hoạt động của làng nghề chủ yếu là hộ tự bỏ vốn, hiện nay các hộ còn được vay vốn ưu đãi tín dụng đầu tư vào thúc đẩy phát triển sản xuất.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Điều Kiện Phát Triển Các Làng Nghề Truyền Thống Của Tỉnh Trà Vinh:
- Diện Tích, Dân Số Và Mật Độ Dân Số Tỉnh Trà Vinh Phân Theo Huyện Năm 2010.
- Thực Trạng Các Làng Nghề Truyền Thống Của Tỉnh Trà Vinh:
- Làng Nghề Sơ Chế Biến Thủy Sản Xóm Đáy (Xã Đông Hải, Huyện Duyên Hải):
- Làng Nghề Trồng Hoa Kiểng Ấp Long Bình (Phường 4, Thành Phố Trà Vinh):
- Những Căn Cứ Để Đưa Ra Định Hướng:
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
Thị trường chưa được ổn định chủ yếu bán tại địa phương và theo đơn đặt hàng trong và ngoài tỉnh với số lượng nhỏ.
Làng nghề đan đát xã Đại An đã hình thành từ lâu đời nên trình độ tay nghề của các hộ dân cũng vì thế được nâng lên. Bên cạnh đó, nguồn lao động tại địa phương rất dồi dào, đáp ứng nhu cầu phát triển làng nghề trong những năm tiếp theo. Có 10 hộ dân của xã được tham gia lớp tập huấn nâng cao tay nghề sau đó truyền đạt lại cho các hộ khác. Nguồn nguyên liệu tre trúc có sẵn tại địa phương, khả năng thu hút nguyên liệu trong khu vực tương đối thuận lợi, đáp ứng nhu cầu cung cấp sản phẩm trên thị trường trong thời gian sắp tới. Vị trí địa lý làng nghề tại xã Đại
An rất thuận lợi về giao thông cả đường bộ lẫn đường thủy nên dễ vận chuyển nguyên vật liệu và sản phẩm cung cấp cho thị trường.
Về việc đầu tư máy móc thiết bị vào phục vụ sản xuất các tổ hợp sản xuất và HTX có 06 máy chẽ nang. Về lâu dài HTX tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng các mặt hàng từ tre trúc. Sản phẩm làm ra đa dạng với nhiều chủng loại khác nhau, phục vụ gia đình, đánh bắt cá, tôm… (như: cần xé, rổ, xà ngôm, thúng, ky). Nhất là mặt hàng tiểu thủ công nghiệp đan đát xã Đại An được nhiều khách du lịch ưa chuộng, với những sản phẩm rất xinh xắn có thể dùng để làm quà lưu niệm hay trưng bày rất đẹp mắt. Trong đó, phát triển mạnh mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ khách tham quan du lịch. Làng nghề này đã có khách du lịch đến, tuy nhiên chưa nhiều và theo hình thức tự phát, không do một cơ sở hay doanh nghiệp du lịch nào tổ chức.
Về vấn đề xử lí và bảo vệ môi trường làng nghề: Các tổ hợp tác và HTX đan đát áp dụng một số biện pháp cải tiến công nghệ sản xuất góp phần giảm ô nhiễm môi trường. Phụ phẩm từ tre trúc sau khi thu lại được xử lí, tạo nên một lượng phân hữu cơ rất ích lợi trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
2.3.1.3. Làng nghề đan lát, dệt mành tre, se sợi, tranh ghép gỗ Hưng Mỹ (xã Hưng Mỹ, huyện Châu Thành):
Xã Hưng Mỹ là một xã nông thôn của huyện Châu Thành, cách trung tâm huyện lị khoảng 11 km về hướng đông bắc, xã có diện tích tự nhiên là 2.795,76 ha, trong đó đất nông nghiệp 1.669 ha chiếm 60,77 % diện tích tự nhiên, với diện tích sản xuất lúa 950 ha, diện tích chuyên cây lát 82 ha, diện tích chuyên cây dừa 154 ha, xã có 8 ấp, với 2.118 hộ, dân số chung là 10.301 người, khu hành chính của xã nằm tại ấp Rạch Vồn. Về vị trí địa lý: phía Đông giáp xã Hòa Minh, phía Tây giáp xã Hòa Lợi, phía Nam giáp xã Phước Hảo, phía Bắc giáp Cù lao Long Trị - Thành phố Trà Vinh.
Sản xuất nông nghiệp của xã luôn phát triển, bình quân tốc độ phát triển khoảng 11,85 %/năm, góp phần thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, diện tích lúa hàng năm luôn giữ ổn định khoảng 1.800 ha, sản lượng khoảng 7.200 tấn. Tuy nhiên, xã vẫn còn nghèo, hộ nghèo còn chiếm tỉ lệ cao (21,53 % so với tổng số hộ
năm 2010 theo tiêu chí mới), sản xuất nông nghiệp vẫn còn mang tính độc canh, chi phí sản xuất cao chậm chuyển đổi cơ cấu, ứng dụng khoa học kĩ thuật còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao, khả năng cạnh tranh thị trường còn kém nên giá trị và hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện tích canh tác và thu nhập nông hộ còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế hiện có của xã. Giao thông nông thôn chưa hoàn thiện nên việc đi lại còn gặp rất nhiều khó khăn, trình độ dân cư không đồng đều giữa các ấp, còn một số bộ phận lao động trong địa phương thiếu việc làm và không việc làm còn khá lớn, hàng năm số lao động đến tuổi bổ sung từ 200 – 300 người, tạo một áp lực lớn về giải quyết việc làm.
Căn cứ vào tình hình thực tế, thực hiện chủ trương của cấp trên và quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Đảng bộ xã đã chỉ đạo ngoài việc tập trung chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp cho phù hợp với điều kiện tự nhiên còn chú trọng phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt trong việc chế biến và tạo các sản phẩm từ cây lát, cây dừa, cây tre,… đây là một trong những thế mạnh và tiềm năng phát triển lớn của huyện Châu Thành nói chung và tại xã Hưng Mỹ nói riêng.
Trên 10 năm qua, đặc biệt là những năm gần đây, làng nghề ở xã Hưng Mỹ phát triển khá mạnh, nhất là ở các ấp: Ngãi Hiệp, Ngãi Lợi, Bãi Vàng, Đại Thôn và Rạch Vồn. Đến cuối năm 2006 xã Hưng Mỹ có 01 HTX dệt chiếu Thành Trung, với 08 cơ sở đan đát, 02 cơ sở dệt mành tre, 01 cơ sở se chỉ tơ xơ dừa, 01 cơ sở dệt lưới xơ dừa, 01 cơ sở tranh ghép gỗ, 01 doanh nghiệp làm hàng tiểu thủ công nghiệp, năng lực sản xuất trên 800.000 sản phẩm/năm, doanh thu ước đạt trên 3 tỉ đồng/năm. Tình hình sản xuất của làng nghề trong 2 năm 2006 – 2007: Tổng sản phẩm 856.000 sản phẩm, doanh thu 6.853 triệu đồng, chi phí 6.097 triệu đồng, lợi nhuận 756 triệu đồng, thu nhập bình quân 550.000 – 600.000 đồng/người/tháng. Năm 2010 làng nghề có 08 cơ sở dệt thảm lát, 05 cơ sở tơ xơ dừa, 03 cơ sở đốt than gáo dừa, 15 cơ sở dệt mành tre, mành trúc, 13 cơ sở dệt lưới chỉ xơ dừa. Sản phẩm khoảng 2.000 tấn xơ dừa, 618 tấn than gáo dừa, 600.000 sản phẩm dệt mành tre mành trúc,
470.000 lưới chỉ xơ dừa, 100.000 sản phẩm thảm lát. Hàng năm giải quyết cho trên 400 lao động. Đến nay toàn xã có 863 hộ tham gia làng nghề đạt 40,74 % so với
tổng số hộ toàn xã, chiếm 53,73 % so với tổng số hộ của 5 ấp nêu trên (1.606 hộ) giải quyết việc làm thường xuyên cho 2.600 lao động địa phương. Tổng doanh thu 8.000.000.000 đồng. Làng nghề tiểu thủ công nghiệp của xã đã tạo ra được một số sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu như: chiếu cói, thảm lát, tranh ghép gỗ, lưới xơ dừa, dệt mành tre, giấy dán bằng yếm dừa, đan giỏ, chậu hoa lục bình xuất khẩu… góp phần tăng thu nhập cho người dân, giúp họ từng bước vươn lên xóa đói, giảm nghèo. Thu nhập bình quân của người lao động từ 900.000 –
1.100.000 đ/người/tháng. Tạo ra sản phẩm xuất khẩu có kim ngạch từ 5 – 6 triệu USD/năm. Tuy sản phẩm của làng nghề rất phong phú nhưng chỉ cung cấp cho các cơ sở dịch vụ thương mại bán cho khách.
Tháng 3/2001 HTX dệt chiếu Thành Trung được thành lập với 9 thành viên, vốn điều lệ 75 triệu đồng, số xã viên và vốn điều lệ của HTX tăng lên không ngừng theo thời gian, tháng 8/2004 có 12 xã viên vốn điều lệ tăng lên 102,4 triệu đồng, vốn góp chủ yếu là giá trị đất, nhà xưởng, khung dệt, … Năm 2007 HTX Thành Trung có 190 khung dệt, 145 máy se V, 20 máy dệt mành tre, 200 máy se chỉ tơ xơ dừa, năng lực sản xuất/tháng đạt 30.000 sản phẩm thảm lát, 120.000 mành tre, 01 tấn chỉ xơ dừa, 500 mành lưới xơ dừa. Về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí điều hành hoạt động luôn được quan tâm củng cố. Trong 02 năm 2006 – 2007 thông qua Liên hiệp HTX Trà Vinh, HTX dệt chiếu Thành Trung đã kí hợp đồng với Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh – xuất nhập khẩu Vĩnh Long, Công ty đầu mối ở Bến Tre, … dệt gia công và đan đát 12 loại sản phẩm, giải quyết cho 1.500 lao động trong đó dệt thảm 800 lao động, đan đát mành tre mành trúc 400 lao động, dệt lưới tơ xơ dừa 300 lao động. Tổng sản phẩm sản xuất 406.000 sản phẩm, doanh thu 4.538 triệu đồng, chi phí 4.112 triệu đồng, lợi nhuận 426 triệu đồng, thu nhập 600.000 – 700.000 đồng/lao động/tháng.
Ngoài ra, năm 2004 Cơ sở tranh ghép gỗ Hứa Trạng được công nhận theo Quyết định 2181/QĐ – CTT của Chủ tịch UBND Tỉnh Trà Vinh, với vốn điều lệ là
38.800.000 đồng và tiếp tục tăng lên 50.800.000 đồng. Cơ sở hoạt động liên tục và có hiệu quả từ ngày thành lập cho đến nay tạo ra nhiều sản phẩm tranh ghép gỗ được
chào bán trên mọi miền đất nước, hiện cơ sở có 9 lao động hoạt động tại cơ sở, tổng sản phẩm tạo ra năm 2007 là 15.000 sản phẩm các loại, tổng doanh thu là
68.400.000 đồng/năm, chi phí 76.320.000 đồng, lợi nhuận 10.180.000 đồng. Năm 2010 tổng sản phẩm 21.000 sản phẩm, doanh thu 143.262.000 đồng, chi phí 104.717.000 đồng, lợi nhuận 38.545.000 đồng, thu hút khoảng 24 lao động. Về cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất có các loại máy móc như máy cưa, máy tiện cây, máy mài bóng.
Cũng trong năm 2004, Doanh nghiệp tư nhân Văn Chất cũng được công nhận với vốn điều lệ 213.090.000 đồng, chuyên kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ (như những giỏ xách được đan bằng dây nhựa, khay hộp bằng nhựa, …) doanh nghiệp có 18 cơ sở hoạt động gia công, luôn tạo việc làm thường xuyên cho trên 600 lao động. Năm 2007 tổng sản phẩm tạo ra: 80.000 sản phẩm, tổng doanh thu 985.909.712 đồng, chi phí 968.296.029 đồng, lợi nhuận cho doanh nghiệp 17.613.683 đồng. Về cơ sở vật chất của doanh nghiệp phục vụ cho sản xuất có 04 máy se lõi, 01 bàn cắt, 01 máy may công nghiệp, 30 bàn sắt đan ghế, 01 sa quay dây, 100 go dệt, 50 sa chỉ, doanh nghiệp có diện tích nhà kho khoảng 500 m2 được xây
cất bằng cây tạp, mái tol, nền lát gạch. Năm 2010 tổng sản phẩm tạo ra là: 150.000 sản phẩm, doanh thu 2.000.000.000 đồng, chi phí 1.960.000.000 đồng, lợi nhuận
40.000.000 đồng, thu hút khoảng 900 lao động.
Đến năm 2005, Cơ sở Tài Phú cũng được công nhận, với vốn điều lệ trên
80.000.000 đồng, cơ sở hoạt động chuyên lĩnh vực se tơ xơ dừa, dệt lưới xơ dừa, … Về cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất có 170 máy se chỉ xơ dừa, 03 máy se tim đèn, 07 máy dệt lưới tơ xơ dừa, tổng số lao động tại các cơ sở là 600 lao động. Cơ sở hoạt động lĩnh vực chính là gia công lại cho công ty đầu mối ở Bến Tre thông qua các hợp đồng kinh tế là se chỉ tơ xơ dừa và dệt lưới tơ xơ dừa. Tổng sản phẩm tạo ra 05 tấn chỉ xơ dừa, tổng doanh thu 720.000.000 đồng, chi phí 648.000.000 đồng, lợi nhuận 16.000.000 đồng. Năm 2010 tổng sản phẩm 13 tấn chỉ tơ xơ dừa, doanh thu chung 910.000.000 đồng, chi phí 850.000.000 đồng, lợi nhuận 60.000.000 đồng.
Sản phẩm tạo ra từ HTX Thành Trung, doanh nghiệp, các cơ sở chủ yếu là gia công cho các công ty đầu mối các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang và TPHCM.
Về vấn đề xử lí và bảo vệ môi trường làng nghề: Do nguyên liệu của làng nghề chủ yếu từ cây lát, cây dừa, tre, trúc nên không ảnh hưởng lớn đến môi trường làng nghề. Nhưng việc đốt than gáo dừa thì lại ảnh hưởng đến môi trường xung quanh khu vực sản xuất. Tuy nhiên, cơ sở sản xuất than gáo dừa chú trọng đến khâu xử lí khi đốt than nên cũng giảm bớt phần khí thải. Phụ phẩm sau khi thu lại được xử lí, cung cấp lượng phân hữu cơ có ích cho sản xuất nông nghiệp.
2.3.1.4. Làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ Lương Hòa (xã Lương Hòa, huyện Châu Thành):
Xã Lương Hòa là một xã vùng nông thôn huyện Châu Thành, có diện tích tự nhiên là 2.194,24 ha, trong đó đất nông nghiệp 2.030,44 ha, xã có 07 ấp, có 2.174 hộ, trong đó hộ đồng bào dân tộc Khmer chiếm 54 %, dân số chung là 11.084 người, khu hành chính của xã nằm tại ấp Sâm Bua, cách trung tâm huyện lị 7 km về hướng Đông.
Sản xuất nông nghiệp của xã trong những năm qua luôn phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, diện tích lúa hàng năm luôn giữ vững ổn định khoảng 2.900 ha, sản lượng khoảng 11.000 tấn. Nhưng xã vẫn là xã nghèo thuộc Chương trình 135/CP. Nông nghiệp phát triển chưa bền vững, phụ thuộc nhiều yếu tố bất lợi từ thời tiết, vật tư, giá cả thị trường luôn biến động, tình hình dịch bệnh thường xuyên xảy ra trên diện rộng, khó kiểm soát, đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nông dân. Mặt khác, khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao. Cơ sở hạ tầng phát triển chưa đồng bộ. Xã có đông đồng bào Khmer nên hộ nghèo còn chiếm tỉ lệ khá cao. Bên cạnh đó, một số bộ phận lao động trong địa phương thiếu việc làm và không việc làm còn khá lớn, số lao động đến tuổi hàng năm từ 150 – 200 lao động, đã tạo áp lực lớn trong việc giải quyết việc làm cho địa phương.
Thực hiện chủ trương của trên về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là tạo ra các sản phẩm từ nguồn nguyên liệu sẵn có như cây dừa, tre, trúc, lát, lá dừa nước, … xã đã chỉ đạo phát triển làng nghề đã có ở địa phương nhằm thu hút lao động nông thôn, giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn theo hướng CNH – HĐH.
Làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa đã có từ lâu đời nhưng những năm gần đây, làng nghề phát triển khá mạnh, nhất là ở các ấp: Ô Chích A, Base A, Base B, Bình La và Sâm Bua. Đến cuối năm 2008, xã Lương Hòa có 01 cơ sở se chỉ tơ xơ dừa, 01 tổ sản xuất đan mê bánh tráng, 01 tổ sản xuất bánh tráng và hàng trăm hộ dân với nghề đan đát, chằm lá, thủ công mỹ nghệ, … năng lực sản xuất trên 700.000 sản phẩm/năm, doanh thu ước đạt trên 2 tỉ đồng/năm, đến nay toàn xã có 697 hộ tham gia làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ đạt tỉ lệ 32,1 % so với tổng số hộ toàn xã và đạt 41,44 % so với số dân của 5 ấp (697/1.682), giải quyết việc làm thường xuyên cho 850 lao động địa phương, tạo thu nhập bình quân 1.000.000 –
1.300.000 đồng/người/tháng. Làng nghề tạo ra được một số sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu như: bánh tráng, điêu khắc gỗ, lưới xơ dừa, tơ xơ dừa, đan mê bánh tráng, may mặc… Ngoài ra, còn có 01 cơ sở may gia công, 01 cơ sở sản xuất than tổ ong, góp phần tăng thu nhập cho người dân từng bước vươn lên xóa đói giảm nghèo.
Cơ sở tơ xơ dừa Tám Quang, ấp Ô Chích được thành lập vào năm 2001, có vốn điều lệ 150.000.000 đồng. Cơ sở hoạt động chuyên lĩnh vực se chỉ tơ xơ dừa, se chỉ tim đèn, dệt lưới xơ dừa… Đây là bước ngoặt lớn cho sự phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp của xã. Về cơ sở vật chất phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh: cơ sở có 110 máy se chỉ tơ xơ dừa, 02 máy se tim đèn, 02 máy dệt lưới xơ dừa. Lực lượng lao động của cơ sở là 90 lao động. Sản phẩm chủ yếu cung cấp cho các doanh nghiệp tỉnh Bến Tre thông qua hợp đồng kinh tế. Năm 2007 tổng sản phẩm đạt 40 tấn chỉ xơ dừa, lưới xơ dừa, se chỉ tim đèn, tổng doanh thu 200 triệu đồng. Năm 2008 tổng sản phẩm 43 tấn chỉ xơ dừa, lưới xơ dừa, se chỉ tim đèn, tổng