CHƯƠNG 5: ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
Mục tiêu: Chương này giúp người học nắm được các khái niệm giá trị doanh nghiệp và định giá doanh nghiệp, hiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp và mục tiêu của hoạt động định giá doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, giúp cho người học có thể đi sâu nghiên cứu các cơ sở khoa học và nội dung cụ thể của từng phương pháp định giá doanh nghiệp bao gồm phương pháp giá trị tài sản thuần, phương pháp hiện tại hóa nguồn tài chính trong tương lai, phương pháp định lượng Goodwill và phương pháp định giá doanh nghiệp dựa vào tỷ số P/E. Bên cạnh đó, còn giúp người học nắm được quy trình định giá doanh nghiệp. Từ đó, người học có thể nắm bắt và ứng dụng các nội dung này để triển khai thực hiện các khâu công việc trong quá trình định giá doanh nghiệp.
5.1. GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
5.1.1. Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp
* Doanh nghiệp
Trên phương diện lý thuyết, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp. Xét theo chức năng của doanh nghiệp, doanh nghiệp được hiểu là một đơn vị kinh tế sử dụng các nguồn lực tài chính, vật chất, kỹ thuật và con người để thực hiện những hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa được lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp được các mục tiêu xã hội nhất định. Xét theo quy định pháp lý, doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh1.
Doanh nghiệp là một trong những chủ thể kinh doanh chủ yếu trong nền kinh tế, có hình thức tồn tại đa dạng. Theo Luật doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam (2014), một doanh nghiệp có thể được tổ chức dưới hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có thể liên kết với nhau tạo thành nhóm công ty dưới các hình thức là tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty mẹ - công ty con.
* Giá trị doanh nghiệp
Có thể bạn quan tâm!
- Định giá tài sản Phần 2 - 1
- Định giá tài sản Phần 2 - 2
- Phương Pháp Định Giá Tiếp Cận Từ Thị Trường
- Các Phương Pháp Chủ Yếu Định Giá Doanh Nghiệp
- Định giá tài sản Phần 2 - 6
- Phương Pháp Hiện Tại Hóa Lợi Nhuận Thuần
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
Trong nền kinh tế thị trường, giống như các hàng hóa thông thường, doanh nghiệp cũng là đối tượng được giao dịch trao đổi dưới các hình thức khác nhau như mua bán, hợp nhất, chia tách,… Khi đó, doanh nghiệp được xem là một loại hàng hóa và giá cả và giá trị của chúng cũng chịu sự chi phối bởi các quy luật của thị trường. Tuy nhiên, không giống như hàng hóa thông thường, doanh nghiệp được xem là một loại hàng hóa đặc biệt. Mỗi doanh nghiệp có quy mô và cơ cấu tài sản khác nhau, có vị trí và trụ sở kinh doanh riêng biệt, có cơ cấu quản trị và năng lực tài chính khác
1 Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13
nhau. Cho nên, không tồn tại hai doanh nghiệp giống nhau hoàn toàn. Do đó, khi đánh giá giá trị doanh nghiệp, việc so sánh giá trị của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác chỉ có tính chất tham chiếu. Doanh nghiệp không phải là tập hợp của những tài sản hữu hình và vô hình, vô tri, vô giác, mà là tổ chức kinh tế, là một thực thể hoạt động, có thể lớn mạnh và phát triển theo thời gian. Sự phát triển của doanh nghiệp tùy thuộc vào khả năng nội tại và cách ứng xử các mối quan hệ của doanh nghiệp với môi trường. Vì vậy, khi đánh giá về giá trị doanh nghiệp, ngoài việc đánh giá về các yếu tố vật chất, tài chính, thì còn phải xem xét các yếu tố phi vật chất chi phối đến giá trị doanh nghiệp như cơ cấu quản trị, các mối quan hệ khách hàng, nhà cung cấp, uy tín, thương hiệu,....
Đứng trên quan điểm của các nhà đầu tư, việc bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp là nhằm có được các lợi ích kinh tế và được biểu hiện tập trung thông qua các khoản thu nhập mà doanh nghiệp đem lại cho nhà đầu tư. Việc sở hữu các tài sản hay tổ chức bộ máy kinh doanh, khai thác các mối quan hệ và lợi thế kinh doanh chỉ là cách thức, phương thức để thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi ích hay thu nhập cho các nhà đầu tư. Vì vậy, tiêu chuẩn để nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ vốn và đánh giá giá trị doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai. Do đó, giá trị doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền về các khoản thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh. Từ đây cũng cho thấy, về nguyên lý, có hai cách tiếp cận về đánh giá giá trị doanh nghiệp: Đánh giá giá trị của các yếu tố đầu vào gồm các tài sản và các yếu tố phi tài sản như tổ chức, mối quan hệ, lợi thế,…; đánh giá giá trị của các yếu tố đầu ra dưới hình thức lượng hóa các khoản thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư.
Doanh nghiệp được xem là hàng hóa đặc biệt, cho nên khi nghiên cứu về giá trị của doanh nghiệp cần lưu ý một số điểm đặc thù sau đây:
- Giá trị doanh nghiệp là một khái niệm cơ bản khác với giá bán doanh nghiệp trên thị trường. Giá trị doanh nghiệp được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà doanh nghiệp đem lại cho các nhà đầu tư. Trong khi đó, giá bán doanh nghiệp là mức giá được
hình thành trong giao dịch trên thị trường, chịu sự tác động của các yếu tố cung cầu về “hàng hóa doanh nghiệp” và sự cạnh tranh trên thị trường mua bán, hợp nhất doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp có thể có khoảng cách khá xa so với giá cả doanh nghiệp khi mà sự quản lý và tính minh bạch của thị trường mua bán doanh nghiệp còn hạn chế.
- Giá trị doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là khái niệm được sử dụng trong việc đánh giá các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đưa lại cho nhà đầu tư, mà giá trị doanh nghiệp còn là khái niệm được sử dụng, được xác định ngay cả khi không có giao dịch mua bán, chuyển nhượng doanh nghiệp.
- Giá trị doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố phức tạp và khó định lượng. Do đó, người làm công tác định giá doanh nghiệp cần phải có kiến thức chuyên môn sâu, kinh nghiệm, sự nhạy cảm nghề nghiệp,… mới có thể đưa ra được các kết quả định giá doanh nghiệp một cách xác đáng.
5.1.2. Khái niệm và mục đích định giá doanh nghiệp
* Khái niệm
Trên cơ sở các khái niệm giá trị doanh nghiệp và định giá tài sản, định giá doanh nghiệp (xác định giá trị doanh nghiệp) được hiểu là việc sử dụng các phương pháp phù hợp để ước tính giá trị doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó theo một mục đích nhất định. Nói cách khác, định giá doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình hoạt động, làm cơ sở cho các giao dịch thông thường của thị trường.
* Mục đích của định giá doanh nghiệp
Hoạt động định giá doanh nghiệp được xuất phát từ các nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế và nhằm thực hiện các mục đích của các chủ thể này. Thông thường, hoạt động định giá doanh nghiệp hướng tới các mục đích cơ bản sau:
- Phục vụ cho giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, cổ phần hóa, giải thể, thanh lý doanh nghiệp,… Đây là các giao dịch có tính chất thông thường và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Việc định giá doanh nghiệp sẽ cung cấp các căn cứ cần thiết
để có thể tiến hành thương lượng, thỏa thuận và đảm bảo sự thành công các giao dịch kể trên.
- Đề ra các quyết định đầu tư và quản lý:
Trong quá trình đầu tư vào doanh nghiệp, giá trị doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng để nhà đầu tư có thể phân tích, đánh giá các cơ hội đầu tư. Giá trị doanh nghiệp được xem là thông tin đầu vào vô cùng quan trọng để các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định đầu tư. Trong quản trị tài chính, mục tiêu của quản trị là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, trong khi đó, giá trị doanh nghiệp là sự phản ánh tổng hợp năng lực nội tại, khả năng tồn tại và tương lai phát triển của doanh nghiệp. Cho nên, giá trị doanh nghiệp là một trong những cơ sở để các nhà quản trị có thể đưa ra quyết định quản lý đúng đắn nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Do vậy, việc định giá doanh nghiệp sẽ giúp cho các nhà đầu tư, nhà quản lý có thể đề ra các quyết định của mình.
- Đánh giá uy tín kinh doanh, khả năng tài chính và vị thế tín dụng của doanh nghiệp: Giá trị doanh nghiệp chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến uy tín kinh doanh, khả năng tài chính và vị thế tín dụng của doanh nghiệp. Ngược lại, khi xác định được giá trị doanh nghiệp, nhìn vào giá trị doanh nghiệp, người ta cũng có thể đánh giá được uy tín, năng lực tài chính và mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp trên thị trường.
- Cung cấp thông tin phục vụ cho các hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô: Trên TTCK, giá cả chứng khoán có thể có khoảng cách khá xa so với giá trị thực của chúng. Khi đó, TTCK được xem là rơi vào trạng thái hoạt động thiếu ổn định, không lành mạnh, có thể dẫn đến hiện tượng “bong bóng” giá chứng khoán, từ đó xuất hiện các nguy cơ đổ vỡ thị trường, gây khủng hoảng tài chính. Do đó, các thông tin về giá trị doanh nghiệp được xem là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý TTCK có thể đánh giá tính ổn định, lành mạnh của TTCK, nhận dạng các dấu hiệu đầu cơ, thao túng thị trường,… Trên cơ sở đó, có thể đưa ra các biện pháp can thiệp, điều tiết phù hợp nhằm tạo ra sự ổn định, lành mạnh và phát triển thị trường tốt hơn.
5.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo ra thu nhập của doanh
nghiệp sẽ ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Việc tạo ra thu nhập của doanh nghiệp chịu tác động bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, cụ thể:
a. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Đây là các yếu tố tác động từ phía bên ngoài doanh nghiệp, vượt khỏi khả năng kiểm soát của doanh nghiệp, bao gồm:
* Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô (môi trường tổng quát):
- Tình hình kinh tế vĩ mô: Một doanh nghiệp luôn tồn tại và hoạt động trong một môi trường kinh tế vĩ mô nhất định và chịu sự tác động bởi các yếu tố thuộc môi trường đó. Trạng thái của nền kinh tế vĩ mô được phản ánh qua diễn biến của các chỉ số kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất tín dụng, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế,… Khi các chỉ số này biến động, sẽ có tác động đến quá trình hoạt động cũng như kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Diễn biến của kinh tế vĩ mô có thể tạo những điền kiện thuận lợi cho doanh nghiệp (chẳng hạn như tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp, mặt bằng lãi suất thấp, tỷ giá hợp lý,…) từ đó tác động tích cực, làm gia tăng giá trị doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình kinh tế vĩ mô cũng có thể đưa lại những khó khăn và bất lợi cho doanh nghiệp (chẳng hạn như lạm phát cao, suy thoái kinh tế, thâm hụt cán cân thương mại gia tăng,…) từ đó làm cho giá trị doanh nghiệp bị giảm sút.
- Tình hình chính trị, pháp luật: Chính trị và pháp luật có tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tình hình chính trị ổn định, an ninh được đảm bảo, pháp luật nghiêm minh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có thể thu hút đầu tư, mở rộng quy mô kinh doanh, gia tăng hiệu quả hoạt động, từ đó tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp. Ngược lại, nếu pháp luật yếu kém, tình hình chính trị bất ổn như xảy ra đảo chính, biểu tình, khủng bố,… sẽ làm cho doanh nghiệp khó thu hút đầu tư, hoạt động thiếu an toàn, kém hiệu quả, từ đó làm giảm giá trị doanh nghiệp.
Các yếu tố thuộc môi trường chính trị, pháp luật có tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
+ Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng, nhất quán của hệ thống pháp luật: đây là yếu tố tạo ra “luật chơi”, ràng buộc trách nhiệm và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mọi chủ thể nói chung và của doanh nghiệp nói riêng.
+ Quan điểm, chủ trương của Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư, kinh doanh thông qua các văn bản pháp quy theo chiều hướng tôn trọng, khuyến khích tự do kinh doanh hay hạn chế.
+ Năng lực pháp luật của Nhà nước và ý thức chấp hành pháp luật của công chúng: Đây là yếu tố tạo ra sự nghiêm minh của pháp luật, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mọi chủ thể, đồng thời ngăn chặn các hành vi gian lận, tiêu cực. Nếu pháp luật đã ban hành song không trở thành hiện thực, không được thực thi một cách nghiêm minh sẽ không thể ngăn chặn và loại trừ được các hành vi tiêu cực như buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả,… ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Tình hình văn hóa, xã hội: Môi trường văn hóa, xã hội có ảnh hưởng đến cách tiếp cận về hình thức, phương thức kinh doanh và khả năng thành công của doanh nghiệp. Các yếu tố thuộc môi trường văn hóa xã hội bao gồm:
+ Lối sống, tư tưởng, đạo đức, phong tục, tập quán, ngôn ngữ,…: Đây là những yếu tố thuộc môi trường văn hóa xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Khi mà doanh nghiệp nắm bắt được tình hình văn hóa, xã hội, tổ chức các hình thức kinh doanh, phương thức phục vụ khách hàng, các hoạt động marketing,… phù hợp với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán thì mới có cơ sở để đảm bảo sự thành công, từ đó gia tăng giá trị doanh nghiệp.
+ Quy mô, cơ cấu, mật độ dân cư, sự gia tăng dân số, giới tính, độ tuổi, mức thu nhập của dân cư,…: Đây là các căn cứ để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động nghiên cứu, dự báo nhu cầu, xác định phân khúc thị trường mục tiêu,…, thiết kế sản phẩm, dịch vụ phù hợp để tiến hành sản xuất, cung ứng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường, qua đó thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp.
+ Tình hình ô nhiễm môi trường, sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên,…: những yếu tố này chi phối đến các quyết định lựa chọn công nghệ kinh doanh, tìm kiếm nguyên vật liệu đầu vào,… nhằm
giảm thiểu chi phí SXKD, đáp ứng những đòi hỏi về bảo vệ môi trường, từ đó góp phần tạo ra giá trị doanh nghiệp.
- Sự phát triển của khoa học - công nghệ: Đây là yếu tố có tác động làm thay đổi căn bản sự lựa chọn về quy trình công nghệ và phương thức tổ chức SXKD. Nếu doanh nghiệp nắm bắt và ứng dụng kịp thời những tiến bộ khoa học - công nghệ vào quá trình quản lý và kinh doanh thì sẽ giúp chodn có thể nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, cải thiện sức cạnh tranh và hiệu quả quản lý, từ đó góp phần làm tăng giá trị doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không ứng dụng kịp thời những tiến bộ khoa học - công nghệ thì sẽ bị tụt hậu, giảm sức cạnh tranh, không cải thiện được hiệu quả, từ đó giá trị doanh nghiệp bị giảm sút.
* Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế vi mô (môi trường đặc thù của ngành):
- Khách hàng: Thị trường của doanh nghiệp chính là tập khách hàng của doanh nghiệp, đây là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Thông thường, khách hàng của doanh nghiệp sẽ chi phối các hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp khách hàng lại bị lệ thuộc vào khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Khi xem xét yếu tố khách hàng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung hay ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp nói riêng, người ta thường nghiên cứu các khía cạnh khác nhau như: Sự trung thành và thái độ của khách hàng; số lượng và chất lượng khách hàng; uy tín, các mối quan hệ và khả năng phát triển các mối quan hệ; thị phần hiện tại và tương lai; quy mô và sự cải thiện của doanh số tiêu thụ;…
- Nhà cung cấp: Tính ổn định và giá cả của nguồn cung đầu vào có ý nghĩa quan trọng, góp phần đảm bảo cho hoạt động SXKD được diễn ra liên tục, giảm được giá thành, từ đó góp phần tạo ra giá trị doanh nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn cung đầu vào có giá cao và thiếu ổn định thì sẽ làm gia tăng giá thành đầu vào, gián đoạn hoạt động SXKD, gây ra những tổn thất cho doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp. Khi đánh giá nhà cung cấp, người ta thường xem xét các khía cạnh khác nhau như: Sự phong phú của các nguồn cung cấp; khối lượng, chủng loại, danh mục nguyên vật liệu có thể thay thế cho nhau; khả năng cung cấp