Định giá tài sản Phần 2 - 2

doanh nghiệp nhằm phát hiện xem đã có tài sản vô hình nào được thừa nhận trong quá khứ hay không. Các báo cáo tài chính cần xác định các tài sản vô hình có thể nhận dạng được nhưng vẫn chưa được vốn hóa các giấy phép, các hợp đồng, các hạn ngạch quy định, các đặc quyền kinh doanh, v.v.. Những tài sản vô hình như bằng sáng chế, bản quyền cũng có thể được tìm ra thông qua khoản tiền bản quyền đã ghi trong các tài khoản.

Để định giá tài sản vô hình, trước hết nhà thẩm định giá cần phải xác định được các dòng thu nhập hoặc lợi tức mà tài sản vô hình đó tạo ra. Đây là một vấn đề rất khó khăn, phức tạp, bởi trong thực tế thường nảy sinh tình huống dòng tiền được tạo ra có sự tham gia của rất nhiều các yếu tố, nhiều tài sản khác nhau và thật khó đạt được độ chính xác trong quá trình phân chia dòng tiền giữa các tài sản vô hình mà chúng có thể tham gia phân phối để tạo ra một dòng tiền riêng lẻ. Ví dụ: Một con chíp vi tính được cấp bằng sáng chế và tên nhãn hiệu của chủ thể đang sở hữu nó (con chíp vi tính Intel), phần giá trị lớn hơn lại nằm ở nhãn hiệu vì phần lớn số người mua nó do sự nổi tiếng của nhãn hiệu này, chứ ít khi biết tại sao nó tốt hơn hay kém hơn con chíp của nhãn hiệu khác. Vì vậy, trong từng trường hợp cụ thể, tùy thuộc vào mục đích của việc định giá mà các tài sản vô hình cần thẩm định theo nhóm và dựa trên cơ sở giá trị của nó.

4.3. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN VÔ HÌNH

Các cách tiếp cận trong định giá tài sản vô hình bao gồm: Cách tiếp cận từ thị trường, cách tiếp cận từ chi phí, cách tiếp cận từ thu nhập. Mỗi cách tiếp cận bao gồm nhiều phương pháp thẩm định giá khác nhau.

Căn cứ vào loại tài sản vô hình cần thẩm định giá, mục đích thẩm định giá, thời điểm thẩm định giá, các thông tin và số liệu về tài sản cần thẩm định giá có thể thu thập được, thẩm định viên cần lựa chọn cách tiếp cận thẩm định giá phù hợp.

4.3.1. Phương pháp định giá tiếp cận từ thu nhập

Cơ sở khoa học của phương pháp này là: Giá trị của một tài sản vô hình sẽ được tính ra từ các lợi ích kinh tế (tức là thu nhập/ dòng tiền) mà tài sản đó mang lại trong tương lai. Từ đó, có hai cách tiếp cận thông thường là vốn hóa thu nhập và phân tích dòng tiền chiết khấu.

(1) Trong cách tiếp cận vốn hóa thu nhập, một mức thu nhập đại diện vĩnh viễn được chia cho một tỷ lệ vốn hóa để xác định giá trị của tài sản vô hình (giá trị hiện tại của dòng tiền đều vĩnh viễn).

Thu nhập được các nhà thẩm định giá phân bổ cho các tài sản vô hình khác nhau, sao cho thu nhập được phân bố cho tất cả các tài sản riêng rẽ không vượt quá thu nhập có được trên toàn bộ tài sản.

Công thức áp dụng là:

I

V = ---- (4.1)

R

Trong đó:

V là giá trị hiện tại của dòng thu nhập trong tương lai I là dòng thu nhập đem lại hàng năm của tài sản

R là tỷ lệ vốn hóa

(2) Trong cách tiếp cận phân tích dòng tiền chiết khấu: Các khoản tiền nhận được được xác định cho từng giai đoạn trong tương lai, áp dụng tỷ lệ chiết khấu có sử dụng các kỹ thuật giá trị hiện tại.

- Các phương pháp chiết khấu thường được sử dụng nhất đối với các tài sản vô hình có đời sống kinh tế hữu hạn. Giai đoạn thời gian bao hàm trong các phương chiết khấu thường ngắn hơn đời sống kinh tế hay đời sống pháp lý của tài sản.

- Các tỷ lệ vốn hóa và tỷ lệ chiết khấu được xác định dựa vào thông tin từ thị trường và biểu hiện bằng yếu tố giá cả (được trích dẫn từ những dữ kiện giao dịch và kinh doanh rộng rãi) hay bằng một tỷ lệ lãi (được xem xét từ những đầu tư thay thế).

- Những lợi ích hay thu nhập dự báo được chuyển thành giá trị có sử dụng các tính toán trong đó xem xét đến tăng trưởng kỳ vọng và thời hạn tồn tại các lợi ích, đến rủi ro gắn liền với dòng lợi ích và giá trị thời điểm của dòng tiền. Tài sản vô hình có thể tạo ra các dòng thu nhập thông qua việc sử dụng tài sản vô hình, sở hữu tài sản vô hình (ví dụ: Thông qua việc thu tiền sử dụng tài sản vô hình), hoặc hạn chế sử dụng tài sản vô hình. Ví dụ về trường hợp tài sản vô hình có thể đóng góp vào dòng thu nhập thông qua việc hạn

chế sử dụng tài sản vô hình là: Người sở hữu tài sản vô hình là một phần mềm máy tính nâng cấp quyết định trì hoãn, chưa tiến hành thương mại hóa phần mềm nâng cấp này để không ảnh hưởng đến giá trị của phần mềm tương tự phiên bản trước đó đang được bán trên thị trường. Khi tiến hành thẩm định giá tài sản vô hình, tùy vào mục đích thẩm định giá, có thể phân tích: Dòng thu nhập từ việc sử dụng tài sản vô hình đối với người sử dụng tài sản vô hình, dòng thu nhập từ việc thu tiền sử dụng tài sản vô hình đối với người sở hữu tài sản vô hình, hoặc cả hai dòng thu nhập trên.

Cách tiếp cận từ thu nhập xác định giá trị của tài sản vô hình thông qua giá trị hiện tại của các khoản thu nhập, các dòng tiền và các chi phí tiết kiệm do tài sản vô hình mang lại. Từ đó, có ba phương pháp định giá tài sản vô hình là: Phương pháp tiền sử dụng tài sản vô hình, phương pháp lợi nhuận vượt trội, phương pháp thu nhập tăng thêm.

* Phương pháp tiền sử dụng tài sản vô hình

a) Nội dung của phương pháp:

Giá trị của tài sản vô hình được tính toán trên cơ sở giá trị hiện tại của dòng tiền sử dụng tài sản vô hình mà tổ chức, cá nhân nhận được khi cho phép sử dụng tài sản vô hình.

Phương pháp này đặt ra giả định rằng tổ chức hoặc cá nhân không sở hữu tài sản vô hình phải trả tiền để sử dụng nó. Vì vậy, phương pháp này tính giá trị tài sản vô hình thông qua việc tính các khoản tiền sử dụng tài sản vô hình tiết kiệm được nếu tổ chức hoặc cá nhân đó sở hữu tài sản vô hình.

Phương pháp này được thực hiện bằng cách chiết khấu dòng tiền trong tương lai là khoản tiền sử dụng tài sản vô hình tiết kiệm được đã trừ thuế (nếu có).

Việc tính toán dòng tiền sử dụng tài sản vô hình, thuế, chi phí duy trì và các khoản chi phí hỗ trợ khác phải nhất quán. Cụ thể, nếu tổ chức cá nhân sở hữu tài sản vô hình chịu trách nhiệm trả chi phí duy trì (ví dụ chi phí quảng cáo, hoặc chi phí nghiên cứu duy trì và phát triển), thì tiền sử dụng tài sản vô hình cũng như dòng tiền trả để được sử dụng tài sản vô hình cũng cần tính đến các chi phí này. Ngược lại, nếu chi phí duy trì không bao gồm trong tiền sử dụng tài sản vô hình, thì chi phí này cũng cần được loại bỏ khỏi dòng tiền trả để sử dụng tài sản vô hình.

b) Thông tin cần có để áp dụng:

- Mức tiền sử dụng tài sản vô hình, có thể là:

+ Mức tiền sử dụng tài sản vô hình thực tế mà người chủ tài sản vô hình có được nhờ chuyển giao quyền sử dụng tài sản vô hình;

+ Mức tiền sử dụng tài sản vô hình giả định tức là khoản tiền người sử dụng giả thiết phải trả cho người chủ sở hữu tài sản vô hình. Mức tiền này được tính trên cơ sở mức tiền sử dụng tài sản vô hình của các tài sản vô hình tương tự được giao dịch trên thị trường, hoặc được tính trên phần lợi nhuận của việc sử dụng tài sản vô hình mà người sử dụng tài sản vô hình sẵn sàng trả cho người sở hữu tài sản vô hình trong một giao dịch khách quan và độc lập.

- Có các thông tin giao dịch của các tài sản tương tự về các quyền được luật pháp bảo hộ, các thông tin trên hợp đồng nhượng quyền sử dụng tài sản vô hình như tiền sử dụng tài sản vô hình, các chi phí yêu cầu phải bỏ ra để duy trì (ví dụ như quảng cáo, nâng cấp sản phẩm, kiểm soát chất lượng), ngày sử dụng, ngày kết thúc hợp đồng nhượng quyền.

- Báo cáo tài chính và các tài liệu liên quan.

c) Trường hợp áp dụng:

- Khi có thông tin, số liệu cần thiết về tiền sử dụng tài sản vô hình của các tài sản vô hình tương tự trên thị trường.

- Khi cần tính mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp có tranh chấp.

- Có thể dùng làm một phương pháp bổ sung cho các phương pháp thẩm định giá khác.

Khi áp dụng phương pháp này, cần phải lượng hóa dòng tiền hay thu nhập sau thuế trong tương lai từ các tài sản vô hình bằng cách ước tính dòng tiền bản quyền tác giả có thể thu được, nếu giấy phép quyền sử dụng tài sản vô hình đó được cấp cho một đối thủ cạnh tranh. Hoặc việc tính toán này có thể được tiến hành bằng cách ước tính tiền bản quyển tác giả mà chủ sở hữu tài sản cần phải trả để sử dụng tài sản đó nếu họ không quản lý tài sản này. Tức là dòng tiền đó được tách ra từ tiền trả bản quyền tác giả.

Khi dòng tiền hoặc dòng thu nhập (tiền bản quyền tác giả) thu được từ tài sản đã xác định, chúng ta sẽ sử dụng một tỷ lệ vốn hóa thích hợp để định giá trị tài sản vô hình. Phương pháp phân tích dòng tiền chiết khấu cũng được sử dụng khi dòng tiền của các năm là khác nhau.

Trong thực tế, việc lựa chọn tỷ lệ tiền bản quyền tác giả thích hợp có thể mang tính chủ quan, đặc biệt là khó có được thông tin về các tỷ lệ áp dụng cho một ngành cụ thể. Cũng nên lưu ý rằng tỷ lệ tiền bản quyền tác giả trong một ngành khó mà chính xác tuyệt đối; chẳng hạn nó có thể sai số phụ thuộc vào mức áp dụng, ví dụ như phần trăm tính trên tổng doanh số bán ra hay tổng lợi nhuận. Tỷ lệ tiền bản quyền tác giả cũng phụ thuộc vào mức hỗ trợ của chủ thể cấp giấy phép.

Tỷ lệ tiền bản quyền tác giả thông thường được thỏa thuận giữa các công ty với nhau trên cơ sở tính đến các yếu tố:

- Mức doanh thu dự tính;

- Mức lợi nhuận có thể đạt được;

- Mức độ độc quyền của giấy phép (độc quyền tại một khu vực);

- Vùng lãnh thổ (toàn quốc, một vùng hoặc toàn cầu);

- Mức độ đóng góp của mỗi bên vào chuyển nhượng bản quyền, ví dụ tiền bản quyền tác giả sẽ được trả cao hơn nếu bên cấp bản quyền đến tận nơi để tư vấn chuyên môn cho người được cấp bản quyền, hoặc trả cho việc quảng cáo trên toàn quốc.

- Tuổi thọ dự tính của sản phẩm (tuổi thọ của bằng sáng chế trong bao lâu).

- Cạnh tranh tương lai, nghĩa là các đối thủ cạnh tranh có thể sản xuất sản phẩm thay thế giá thấp/rẻ hơn.

Thực tế cho thấy rằng, giá trị của tiền bản quyền có thể thay đổi theo tuổi thọ của giấy phép, chúng có thể cao hơn trong những năm đầu khi sản phẩm còn độc quyền, hoặc có thể thấp hơn nếu dự tính rằng sẽ phải mất một thời gian để đạt được doanh số yêu cầu. Để đánh giá xem liệu tiền bản quyền có khả năng so sánh hay không thì cần tiếp cận các thông tin liên quan và điều này thường khó khăn và không phải lúc nào cũng thực hiện được. Các thông tin về tiền mua bản quyền tác giả có thể thu thập từ các công ty định giá chuyên nghiệp hoặc từ các chuyên gia (đặc biệt là ở nước Mỹ), tuy nhiên, không phải lúc nào chúng cũng phù hợp cho các mục đích so sánh trong định giá.

Phương pháp hiệu quả nhất sử dụng trong việc thẩm định giá các tài sản vô hình như bằng sáng chế, bản quyền và tên nhãn hiệu là phương pháp tính tiền bản quyền tác giả. Thông thường, có thể thu

thập các thông tin về tiền bản quyền tác giả có thể được trả. Dùng kỹ thuật chia lợi nhuận để kiểm tra tỷ lệ tiền bản quyền tác giả, đồng thời kiểm tra dòng tiền của bên cấp giấy phép và bên được cấp giấy phép theo hợp đồng về cấp giấy phép, đánh giá xem các dòng tiền đó có thực sự thương mại không.

* Phương pháp lợi nhuận vượt trội (siêu lợi nhuận)

Phương pháp này giả định rằng có thể tách riêng tổng lợi nhuận vượt trội sau thuế mà doanh nghiệp đang quản lý và thu lợi ích từ tài sản đang xem xét so với lợi nhuận của các chủ thể tương tự không quản lý tài sản này. Sau đó, tổng lợi nhuận tăng thêm đó sẽ được vốn hóa bằng cách sử dụng một tỷ lệ vốn hóa thích hợp để tìm ra giá trị của tài sản vô hình có thể nhận dạng được.

Phương pháp này thường được sử dụng để định giá trị của các nhãn hiệu thương mại đã nổi tiếng.

a) Nội dung của phương pháp:

Phương pháp lợi nhuận vượt trội ước tính giá trị của tài sản vô hình trên cơ sở chênh lệch giữa các khoản lợi nhuận có được của một doanh nghiệp khi sử dụng và khi không sử dụng tài sản vô hình này.

Trong phương pháp lợi nhuận vượt trội, giá trị tài sản vô hình được ước tính trên cơ sở chênh lệch của giá trị hiện tại của hai dòng tiền chiết khấu trong trường hợp tài sản vô hình cần thẩm định giá được sử dụng để tạo ra thu nhập vượt trội cho chủ thể và trong trường hợp chủ thể không sử dụng tài sản vô hình cần thẩm định giá.

b) Thông tin cần có để áp dụng:

Một số hoặc tất cả các thông tin sau cần được cân nhắc trước khi áp dụng phương pháp lợi nhuận vượt trội:

- Lợi nhuận kỳ vọng, chi phí tiết kiệm được và các dòng thu nhập trong tương lai tạo ra cho một doanh nghiệp khi sử dụng tài sản vô hình và không sử dụng tài sản vô hình.

- Tỷ suất chiết khấu phù hợp để dự báo thu nhập trong tương lai. Ví dụ 4.1: Công ty thẩm định giá ABC thẩm định giá quyền sở hữu trí tuệ một loại bao bì có kiểu dáng độc đáo, được ưa chuộng và đã được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ của Công ty sản xuất giấy

ăn Anpha.

Trên cơ sở phân tích các thông tin thu thập được, Công ty thẩm định giá ABC đưa ra các nhận định như sau:

- Dự kiến tuổi đời kinh tế của bao bì là 07 năm, tính từ năm 2006;

- Việc sử dụng bao bì mới làm lợi nhuận của công ty Anpha tăng thêm 25% so với khi không sử dụng bao bì mới.

- Tỷ suất chiết khấu là 17% được tính trên cơ sở cộng Tỷ suất lợi nhuận bình quân của ngành sản xuất giấy ăn là 16%/năm và phụ phí rủi ro đối với việc tạo lợi nhuận từ quyền sở hữu trí tuệ về kiểu dáng bao bì mới là 1%.

Trên cơ sở điều tra và nhận định trên, Công ty thẩm định giá ABC dự tính lợi nhuận tăng thêm do sử dụng bao bì mới trong 7 năm của công ty Anpha và tính toán giá trị hiện tại của bao bì mới và được thể hiện trong bảng sau:

(ĐVT: 1000đ)


Năm

Lợi nhuận sau thuế trong trường hợp

không sử dụng

bao bì mới

Lợi nhuận sau thuế tăng thêm do sử dụng bao bì

mới

Hệ số chiết khấu (1)

Giá trị tại thời điểm thẩm định giá 2006

2006

50.000

12.500

0,8547

10.684

2007

100.000

25.000

0,7305

18.263

2008

200.000

50.000

0,6244

31.219

2009

300.000

75.000

0,5337

40.024

2010

400.000

100.000

0,4561

45.611

2011

500.000

125.000

0,3898

48.730

2012

550.000

137.000

0,3332

45.814



Tổng cộng

240.344

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

Định giá tài sản Phần 2 - 2

Ghi chú: (1) Hệ số chiết khấu của năm thứ i (i = 1, 2, 3 ...7) được tính theo công thức sau:

(1 + 0,17)i

Hệ số chiết khấu =1-----------

Công ty thẩm định giá ABC kết luận: Tại thời điểm thẩm định giá

thì giá trị quyền sở hữu trí tuệ của loại bao bì mới của Công ty sản xuất giấy ăn Anpha là 240.300 nghìn đồng hay 240,3 triệu đồng.

c) Trường hợp áp dụng:

- Phương pháp này có thể áp dụng với cả tài sản vô hình tạo ra các khoản thu nhập tăng thêm và tài sản vô hình giúp tiết kiệm chi phí.

- Có thể dùng làm một phương pháp bổ sung cùng với các phương pháp thẩm định giá khác.

Trong thực tế, việc áp dụng phương pháp này gặp nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất là việc xác định lợi nhuận vượt trội, bởi vì rất khó có được thông tin chính xác về tổng lợi nhuận từ nhãn hiệu đem lại, và cũng khó tìm thấy các doanh nghiệp bán sản phẩm tương tự mà không có nhãn hiệu.

Thông thường việc tính toán phần lợi nhuận vượt trội và tỷ lệ vốn hóa được sử dụng trong định giá là rất chủ quan và khó chứng minh độ tin cậy.

* Phương pháp thu nhập tăng thêm

a) Nội dung của phương pháp:

Phương pháp thu nhập tăng thêm xác định giá trị của của tài sản vô hình thông qua giá trị hiện tại của các dòng tiền được cho là phát sinh từ đóng góp của tài sản vô hình cần thẩm định giá sau khi loại trừ tỷ lệ dòng tiền phát sinh từ đóng góp của các tài sản khác.

Phương pháp thu nhập tăng thêm được thực hiện như sau:

- Uớc tính các dòng tiền kỳ vọng được tạo ra do sử dụng tài sản vô hình cần thẩm định giá. Dòng tiền được tạo ra do sử dụng tài sản vô hình cần thẩm định giá được ước tính bằng cách giảm trừ khỏi dòng tiền kỳ vọng nói trên khoản đóng góp được tạo ra do sử dụng các tài sản hữu hình, tài sản tài chính và các tài sản vô hình khác với tài sản vô hình cần thẩm định (gọi chung là tài sản đóng góp).

Khoản đóng góp của tài sản đóng góp là khoản thu nhập hợp lý được tạo ra bởi tài sản đóng góp, bao gồm phần lợi nhuận từ tài sản đóng góp và phần bù đắp cho khoản đầu tư ban đầu do sự giảm giá trị của tài sản theo thời gian. Khoản thu nhập hợp lý cho tài sản đóng góp được tính thông qua các bước:

Bước 1: Xác định những tài sản có đóng góp vào dòng tiền thu nhập;

Bước 2: Ước tính giá trị của những tài sản đóng góp này;

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/05/2023