Điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam - 25

nghiệp vụ ban đầu để tạo ra sự điều chỉnh, duy trì một độ lệch tối thiểu giữa tỷ lệ lạm phát thực sự và tỷ lệ lạm phát theo mục tiêu.

- Các yêu cầu đối với việc thực hiện mục tiêu lạm phát:

+ NHTW phải có tính độc lập trong điều hành CSTT, không bị phụ thuộc bởi các yêu cầu của tài chính. Các mục tiêu có thể được thiết lập bởi Chính phủ, nhưng trong điều hành CSTT, NHTW phải thực quyền để đạt được mục tiêu lạm phát.

+ Cần chọn phương pháp đo lường lạm phát như thế nào: Chỉ số lạm phát giá cả hàng tiêu dùng CPI, tỷ lệ lạm phát giá cả hàng tiêu dùng tổng hợp kém linh hoạt, hay sự kết hợp tổng hợp.

Canada tính toán chỉ số lạm phát bao gồm cả những biến động về lương thực, thực phẩm và năng lượng. Nhưng đó là giá bán lẻ, chứ không phải là giá trên thị trường hàng hoá giao dịch bán buôn, giao dịch của các nhà đầu cơ.

Chỉ số tính lạm phát tại Anh và New Zealand cũng bao gồm giá cả tài sản thế chấp, bất động sản.

Vì vậy đưa ra một phương pháp tính toán chỉ số lạm phát tối ưu và phù hợp thực tiễn Việt Nam cũng như tiếp cận thông lệ quốc tế là hết sức cần thiết.

+ Cần thiết phải có cơ chế thiết lập mục tiêu lạm phát với giới hạn mục tiêu.

+ NHTW không nên đặt ra cho mình các mục tiêu sơ cấp nào khác đối với CSTT mà mục tiêu cao nhất đó là lạm phát, nó quan trọng nhất không ngoại trừ xem xét ngắn hạn của các mục tiêu khác như: tỷ lệ tăng GDP thực, tỷ lệ thất nghiệp... Cần phải hướng tới mục tiêu lạm phát lâu dài là định hướng chiến lược, tập trung nhất trong điều hành CSTT của NHTW.

+ NHTW cần minh bạch và chủ động trong khả năng thanh toán của mình, hay sẵn sàng can thiệp trên thị trường tiền tệ. Nền tảng thời gian cho việc đạt được mục tiêu cần rõ ràng: 6 tháng, 1 năm. Báo cáo xuất bản hàng kỳ (hàng quý) cần mô tả mục tiêu, tính minh bạch khả năng thanh khoản, dự trữ của NHTW, những dự báo, sự lựa chọn chính sách và các xử lý nghiệp vụ cần phải

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.

có một số nền tảng cho sự hiểu biết của sự nối kết giữa các mục tiêu nghiệp vụ với các công cụ của CSTT và nền kinh tế thực với các diễn biến kinh tế vĩ mô.

3.3.3. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước với các bộ ngành khác trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô

Điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam - 25

NHNN cần đề nghị và phối hợp với các cơ quan có liên quan hoàn thiện phương pháp tính và công bố lạm phát hàng năm ở nước ta, để đảm bảo chỉ số này được tính toán khoa học hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, việc xác định khối lượng tiền cung ứng hàng năm cần được xem xét linh hoạt và mở rộng hơn, không chỉ trên cơ sở lạm phát và tăng trưởng kinh tế mà còn cần được tính trên một khối lượng lớn nhà đất hàng năm được đưa vào mua bán, trao đổi, đền bù, trở thành hàng hóa và cần phương tiện thanh toán.

NHNN và Bộ Tài chính cần nhanh chóng đổi mới quan điểm trong việc sử dụng phối hợp chính sách tài khóa và CSTT nhằm phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế điều hành CSTT từ trực tiếp sang gián tiếp. Đặc biệt là sự phối hợp đồng bộ trong việc phát triển thị trường tín phiếu kho bạc (cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp).

Cần ban hành hệ thống thông tư liên thông nhằm phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành liên quan với NHNN trong việc điều hành CSTT. Hoàn thiện hành lang pháp lý về thẩm quyền thu thập, cung cấp và trao đổi thông tin giữa Tổng cục Thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan…với NHNN. Xây dựng hệ thống kết nối thông tin giữa các bộ ngành nhằm đảm bảo đủ số liệu cần thiết cho công tác dự báo, phân tích.

3.3.4. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền

Công tác thông tin tuyền truyền hiện nay đang ngày càng được quan tâm chú trọng do nó có tác động đến tâm lý thị trường. Trong thời gian qua, nhiều thông tin thất thiệt trên thị trường đã có tác động đến tâm lý của các thành viên thị trường cũng như làm giảm hiệu quả điều hành của các cơ quan nhà nước. Việc thông tin thường xuyên giữa NHNN, cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, với các TCTD và người dân sẽ giúp TCTD và nhân dân

hiểu đúng định hướng điều hành của NHNN, qua đó hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện đúng các quy định của nhà nước nói chung, cũng như các quy định về DTBB nói riêng. Công tác thông tin tuyên truyền trong thời gian tới cần được thực hiện theo hướng :

- Tổ chức định kỳ các buổi họp báo giữa các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có NHNN với báo giới để công bố công khai định hướng quản lý nhà nước về tiền tệ nói chung, cũng như định hướng điều hành các công cụ CSTT nói riêng, trong đó có công cụ DTBB.

- Thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm giữa NHNN và các TCTD hoặc thiết lập ”đường dây nóng” để kịp thời nắm bắt và giải đáp những vướng mắc trong việc thực hiện các công cụ CSTT, công cụ DTBB. Nắm bắt những thông tin và phản ứng của TCTD trước những biến động của thị trường quốc tế và trong nước để có đề xuất kịp thời trong điều hành công cụ DTBB.

- Khi có những điều chỉnh về công cụ DTBB, NHNN cần thông báo trước ít nhất 1 tháng cho các TCTD để các TCTD có đủ thời gian điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với những giải pháp điều hành của NHNN.

3.3.5. Nâng cao chất lượng quản lý vốn của các NHTM

Trình độ quản lý vốn của các NHTM là yếu tố quan trọng để điều hành CSTT đạt hiệu quả. Để nâng cao chất lượng quản lý vốn của các NHTM cần thực hiện các biện pháp:

- Các NHTM cần luôn quan tâm, trú trọng đến công tác quản lý nguồn vốn, đặt mục tiêu cân đối nguồn vốn là mục tiêu hàng đầu trong kinh doanh;

- Nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin để nắm bắt kịp thời diễn biến nguồn vốn, sử dụng vốn. Thực hiện quản lý vốn tập trung để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn.

- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, nhất là bộ phận nguồn vốn đáp ứng được sự phát triển của hệ thống ngân hàng hiện nay.

- Thường xuyên nắm bắt, phân tích diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để chủ động có các biện pháp trước những thay đổi của thị trường tiền tệ và mục tiêu

điều hành CSTT của NHNN, đảm bảo cân đối vốn và đáp ứng đầy đủ DTBB khi NHNN điều chỉnh tỷ lệ DTBB.

3.3.6. Về chính sách tài khóa

Đối với kênh ngân sách nhà nước, chống thất thu, bỏ sót nguồn thu, rà soát các kẽ hở trong quản lý nguồn thu và phòng chống tiêu cực trong lĩnh vực thu; tương tự, nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các chi tiêu từ ngân sách, đều là những vấn đề không mới nhưng cũng cần nêu lên để có tính đồng bộ khi đề cập đến kiềm chế lạm phát là không ngừng quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực này. Thắt chặt tiền tệ cần phải nhấn mạnh đến kênh này.

Thực hiện hiệu quả, tránh thất thoát, tham nhũng, các tiêu cực khác và tránh ứ đọng các nguồn vốn ODA, vốn đầu tư ngân sách các cấp cũng có ý nghĩa rất lớn góp phần kiềm chế lạm phát, giảm thiểu việc phát sinh chi phí ngoài dự toán, vốn bị đội lên ngoài dự kiến ban đầu đưa nhanh các công trình đó vào sử dụng, phát huy hiệu quả đối với nền kinh tế.

Biện pháp cụ thể cần được thực thi đó là giám sát chặt chẽ tiến độ thực hiện dự án, thay thế kịp thời nhà thầu không đủ năng lực thi công, kiên quyết và giải quyết dứt điểm trong giải phóng mặt bằng, linh hoạt giải quyết các phát sinh. Xử lý nghiêm minh cán bộ có tiêu cực, cán bộ không dám chịu trách nhiệm và cán bộ không có chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh và năng lực trong thực thi công việc có liên quan.

Bên cạnh đó quản lý chặt chẽ hoạt động của các Tập đoàn nhà nước, Tổng công ty nhà nước để tạo nên sự minh bạch về tài chính, hiệu quả vốn đầu tư, tránh thất thoát vốn,... như trường hợp Vinashin,... cũng là một giải pháp cấp bách góp phần kiềm chế lạm phát.

3.3.7. Giải pháp khác

Do đó để kiềm chế lạm phát cần có biện pháp khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh nói chung, sản xuất nông sản thực phẩm nói riêng là hết sức quan trọng, tăng sản lượng nông sản thực phẩm với chất lượng ngày càng cao

không những đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước mà về xuất khẩu còn tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần giảm thâm hụt cán cân thương mại ổn định tỷ giá.

Việt Nam gia nhập WTO thì phải chấp nhận thực tế sự liên thông giá cả nông phẩm trong nước và thị trường thế giới. Người sản xuất có lợi, càng kích thích họ mở rộng sản suất, nâng cao chất lượng, tăng nguồn hàng cho xuất khẩu và cho thị trường trong nước, tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần bình ổn tỷ giá, tạo việc làm ổn định với thu nhập khá cho những người có liên quan, góp phần ổn định xã hội và đảm bảo an sinh xã hội. Mặt khác nguồn cung nông sản thực phẩm khá lên góp phần bình ổn giá mặt hàng này. Cũng chính vì vậy việc thắt chặt tiền tệ không thể kéo giá thị trường nông sản thế giới đi xuống, làm giảm giá bán lẻ nông sản thực phẩm ở Việt Nam. Ngược lại việc thắt chặt tiền tệ, nông dân không vay được vốn đầu tư cho sản xuất ảnh hưởng đến nguồn cung, hoặc vay với chi phí cao càng tác động tăng giá bán trên thị trường, đi ngược lại mục tiêu kiềm chế lạm phát.

Việt Nam vốn là một nước sản xuất nông nghiệp, đến nay khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn chiếm khoảng 70% lực lượng lao động xã hội, cũng tương ứng khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Giá cả nông sản thực phẩm tăng, góp phần nâng cao thu nhập cho người sản xuất, khu vực vốn chịu nhiều rủi ro và lợi nhuận thấp. Giá cả nông phẩm được cải thiện cũng kích thích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn theo hướng hàng hoá, bám sát nhu cầu của thị trường.

Đương nhiên về phía người làm công, ăn lương, hưởng trợ cấp xã hội, người nghèo ở đô thị,... bị ảnh hưởng lớn bởi giá lương thực - thực phẩm tăng, trong khi lương hay trợ cấp xã hội không tăng hoặc tăng rất chậm. Thu nhập gần như giành hết cho nhu cầu ăn uống tối thiểu, nên đời sống ngày càng khó khăn.

Để đảm bảo lợi ích của cả người sản xuất khi gia nhập WTO, vừa đảm bảo an sinh xã hội, thì cần có chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước, chứ không thể sử dụng biện pháp hành chính làm méo mó đi thị trường nông sản.

Định hướng quy hoạch đất đai, sử dụng đất cho sản xuất công nghiệp, đô thị,...đến các khu vực không phải là đất đai màu mỡ, đất 2-3 vụ.

Giảm thâm hụt cán cân vãng lai cần phải đặt trách nhiệm chính là chính sách thương mại, chứ không thiên về chính sách tỷ giá.

Kết luận chương 3


Khi lạm phát xảy ra sẽ tác động trực tiếp đến mọi người và toàn bộ nền kinh tế vĩ mô. Do vậy, lạm phát là chủ đề luôn được các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học, các nhà kinh tế và toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Ở Việt Nam từ khi thực hiện chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì lạm phát thường xuyên xảy ra (chủ yếu là lạm phát cao) với diễn biến hết sức phức tạp do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng hiệu quả điều hành CSTT của NHNN Việt Nam. Theo đó, chương 3 luận án đã tập trung vào làm rõ:

Một là: Định hướng chung và định hướng cụ thể, cũng như đưa ra một số quan điểm về điều hành CSTT thực hiện mục tiêu kiềm soát lạm phát.

Hai là: đề xuất 10 nhóm giải pháp và một số giải pháp bổ trợ, đó là: CSTT của NHNN Việt Nam; các chính sách vĩ mô khác của Chính phủ; các công cụ của CSTT và biện pháp của NHTW sử dụng để kiểm soát lạm phát; các chính sách và giải pháp nhằm khắc phục giảm phát; và các giải pháp đối phó với lạm phát.

Các giải pháp trên được thực hiện đúng, linh hoạt và đồng bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả điều hành CSTT của NHNN Việt Nam nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong thời gian tới.

KẾT LUẬN


Thông thường trong thực tiễn điều hành CSTT, các NHTW cố gắng đặt ra cho mình một khuôn khổ điều hành CSTT phù hợp. Theo đó, mục tiêu, công cụ và cơ chế truyền tải tác động của CSTT được xác định rõ để giúp định hướng phù hợp hoạt động điều hành CSTT của NHTW. Có rất nhiều cơ chế điều hành CSTT khác nhau được các NHTW xác lập tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mỗi quốc gia. Rất khó có thể đánh giá rằng cơ chế điều hành CSTT này là tối ưu hơn cơ chế kia. Tại sao quốc gia này lựa chọn mục tiêu CSTT là tăng trưởng kinh tế với "cái neo" là tỷ giá lại đem đến thành công, nhưng cũng cơ chế điều hành đó lại đem đến sự thất bại cho NHTW. Thậm chí ngay trong một quốc gia cũng không có cơ chế điều hành CSTT nào là phù hợp và tốt nhất cho mọi hoàn cảnh. Sự thay đổi về môi trường vận hành, cấu trúc thể chế và nền kinh tế, kể cả môi trường kinh tế - tài chính quốc tế tạo ra những thách thức mới và áp lực thúc đẩy NHTW luôn tìm đến sự phù hợp hơn về cơ chế điều hành CSTT nhằm góp phần

bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Kể từ năm 1989 đến nay, đã có hơn 20 quốc gia16 áp dụng mô hình điều hành CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu. Cơ chế này đã khẳng định được những lợi thế nhất định và tính phổ cập hay tính phù hợp rộng rãi ở những trình độ phát triển khác nhau. Phương pháp tiếp cận lấy lạm phát làm mục tiêu CSTT đang dần trở thành xu hướng lớn trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Kinh nghiệm và sự tiện lợi về điều

hành đã khiến hầu hết các NHTW thực hiện CSTT dựa vào các mục tiêu trung gian như khối lượng tiền, lãi suất hoặc tỷ giá. Phương pháp tiếp cận mới thông qua lấy lạm phát làm mục tiêu của CSTT đã phá vỡ cơ chế điều hành CSTT truyền thống và tập trung chủ yếu vào tỷ lệ lạm phát như mục tiêu duy nhất và trực tiếp của CSTT (cơ chế điều hành tiền tệ 1 giai đoạn). Cho đến nay, có rất ít bằng chứng thực nghiệm ủng hộ việc cho rằng các nền kinh tế nhỏ, dễ bị tổn thương không đảm bảo cho việc thực hiện thành công cơ chế lấy lạm phát làm mục tiêu. Mặt khác, cũng không có bằng chứng ủng hộ cho rằng việc lấy lạm phát làm mục tiêu CSTT có thể làm méo mó những ưu tiên về chính sách theo hướng tập trung nỗ lực của NHTW để xử lý vấn đề lạm phát tới mức sao nhãng mục tiêu chung phát triển kinh tế. Tôi cho rằng, Việt Nam cũng phải tiến hành


16 Mỹ, Nhật và EU chưa áp dụng khuôn khổ lấy lạm phát làm mục tiêu CSTT

nghiên cứu, xem xét nghiêm túc vấn đề này về mặt lý luận, kinh nghiệm thực tiễn và khả năng áp dụng tại Việt Nam để định hướng cho chiến lược CSTT đến năm 2015 hay xác định tầm nhìn 2020, bởi có những điểm đặc thù của cơ chế này đã và sẽ tiếp tục trở thành xu thế vận động tất yếu, ví dụ yêu cầu về tính minh bạch của CSTT và trách nhiệm của NHTW hay tính độc lập về CSTT.

Luận án đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tế về việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng trên thế giới cũng như ở Việt Nam; phân tích thực trạng tình hình kinh tế Việt Nam trong các giai đoạn đã trải qua; đồng thời tìm ra ngưỡng lạm phát tối ưu cho Việt Nam để dựa trên đó có thể đưa ra được các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng trưởng bền vững. Những nội dung cụ thể mà luận án đã đạt được là:

- Phân tích các quan điểm khác nhau của các trường phái về vấn đề lạm phát và tăng trưởng, khái niệm, nội dung, quan điểm, nguyên nhân,…. Phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát, cũng như mục tiêu điều hành CSTT, vai trò của NHTW trong điều hành CSTT thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát.

- Tổng hợp, phân tích những nghiên cứu trên thế giới về lạm phát, tăng trưởng nói riêng và mối quan hệ tác động qua lại của chúng nói chung, kinh nghiệm điều hành các công cụ CSTT của NHTW nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách.

- Phân tích và đánh giá thực trạng lạm phát và tăng trưởng của Việt Nam, điều hành CSTT của NHNN Việt Nam, vận hành các công cụ của chính sách để đạt được mục tiêu của chính sách trong thời gian qua: diễn biến, kết quả hay thành công, những hạn chế và nguyên nhân, chính sách.

- Đưa ra định hướng CSTT cũng như quan điểm cụ thể trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát.

- Đề xuất một hệ thống các giải pháp trong điều hành từng công cụ của CSTT của NHNN Việt Nam trong mối quan hệ với các chính sách khác: chính sách tài khóa, chính sách thương mại và hội nhập quốc tế cùng các giải pháp khác nhằm giúp kinh tế Việt Nam đạt được mức độ lạm phát hợp lý và tăng trưởng cao không chỉ về mặt con số mà còn cả về chất lượng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/01/2023