Dự Báo Tình Hình Xuất Khẩu Hàng Hoá Ở Nước Chdcnd Lào Giai Đoạn Đến Năm 2020


của năm ngoái, trị giá xuất khẩu trong Quỹ này vẫn giảm xuống 5,23% do số lượng xuất khẩu may mặc (chỉ chiếm 6% của tổng trị giá xuất khẩu) giảm xuống đến 26% và số lượng xuất khẩu mỏ chỉ tăng 2%.

Ngoài ra, một số chính sách của Nhà nước đưa ra trong thời gian vừa qua, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham gia sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu chưa phù hợp, chưa kích thích được sự quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp. Có một số chính sách Nhà nước triển khai chậm, trong quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc như: Luật thương mại, Luật thuế giá trị gia tăng… cùng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước như: chính sách tiền tệ tín dụng, các chính sách hỗ trợ xuất khẩu, trợ giá… cũng còn nhiều bất cập, các thủ tục xuất khẩu tuy đã được cải cách nhiều nhưng vẫn còn gây nhiều phiền hà cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu chưa mang tính tổ chức cao, nguồn hàng dự trữ mỏng, thiếu ổn định, luôn bị động khi giá cả trên thị trường thế giới sụt giảm. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn quá chậm, chưa rõ nét, diện mặt hàng xuất khẩu còn hẹp, chi phi đầu vào cho xuất khẩu còn cao.

- Quy mô xuất khẩu còn quá nhỏ so với các nước trong khu vực. Sự tăng trưởng còn chưa thật ổn định, bền vững.

- Cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn còn lạc hậu, tỷ trọng hàng thô, hàng sơ chế vẫn còn cao, trong số sản phẩm công nghệ chế tạo, hàng gia công vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và nhất là trí tuệ cao còn rất nhỏ bé; xuất khẩu dịch vụ còn thấp xa so với tiềm năng, đặc biệt, khả năng cạnh tranh của phần lớn các hàng hóa còn thấp do giá thành cao, chất lượng thấp, mẫu má bao bì không phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nhập còn chưa đưa tới một sự thay đổi cơ bản tình trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành, ít tiếp cận được với công nghệ nguồn. Tình trạng nhập siêu lớn tuy đã được khắc phục nhưng chưa thật vững chắc, nhập lậu vẫn nghiêm trọng.

- Việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu chưa bám sát tín hiệu của thị


trường thế giới, do đó nhiều sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được. Năng suất, chất lượng, giá thành không đủ sức cạnh tranh, trong đó quy mô vào khâu nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng chưa thoả đáng; việc đầu tư trực tiếp cho các khâu tiêu thụ sản phẩm như hoạt động xúc tiến thương mại, lập các trung tâm thương mại, kho ngoại quan ở nước ngoài chưa có.

- Sự hiểu biết về thị trường bên ngoài còn bị hạn chế, các cơ quan quản lý trong nước lẫn các cơ quan đại diện ở ngoài nước chưa cung cấp thông tin đẩy đủ cho các doanh nghiệp, ngược lại các doanh nghiệp lại ỷ lại trông chờ vào nguồn thông tin của Nhà nước.

- Với việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng túng, cho tới nay chưa hình thành được chiến lược tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi thuế quan dài hạn, các doanh nghiệp phải trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

- Bộ máy quản lý về thương mại tuy đã có nhiều cố gắng để theo sát tình hình thực tiễn nhưng nhìn chung vẫn khá thụ động và trì trệ. Sự phối hợp giữa các bô, ngành, địa phương, giữa các định chế quản lý đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa được tốt, có khi còn triệt tiêu lẫn nhau, chưa tạo được sức mạnh tổng hợp, các bộ quản lý còn thiếu và yếu.

2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 19

- Cơ chế, chính sách xuất khẩu hàng hóa ở Lào hiện vẫn thiên về chú trọng tiềm năng đất nước, chưa quan tâm đúng mức đến yêu cầu của thị trường. Chưa có giải pháp cụ thể cho việc chuyển từ xuất khẩu thô sang tinh chế, tìm thị trường ổn định, có chính sách để doanh nghiệp đầu tư ổn định, phát triển hàng hóa xuất khẩu có hiệu quả và bền vững.

- Chính sách xuất khẩu hàng hóa chưa thực sự giải quyết vấn đề cốt lõi của xuất khẩu là khâu sản xuất, một số chính sách ban hành thời gian qua như ưu đãi về thuế, tín dụng, trợ cấp... cho các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu cho được tập trung ở khâu thương mại mà chưa tác động mạnh tới khâu sản xuất


các mặt hàng xuất khẩu.

- Do chưa có quy hoạch sản xuất hàng hóa xuất khẩu một cách bài bản, về quy mô tổng thể và chất lượng quy hoạch. Dẫn đến tình trạng doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu tự phát theo phong trào diễn ra phổ biến ở nhiều nơi, mà chưa có chính sách khắc phục hữu hiệu. Điều đó làm tăng cung hàng hóa và giảm giá hàng hóa trên thị trường thế giới, khiến người sản xuất chịu thua thiệt.

- Các chế tài ràng buộc và xử lý khi một trong các bên phá vỡ hợp đồng khuyến khích tiêu thụ sản phẩm chưa được quy định chặt chẽ, việc thực thi chưa nghiêm, chưa thể răng đe được các hành vi vi phạm hợp đồng đã ký. Do đó, các bên có thể phá vỡ hợp đồng ngay, nếu thấy có lợi.

* Nguyên nhân khách quan

- Nếu như tăng trưởng kinh tế cao góp phần tích cực vào tăng trưởng xuất khẩu của Lào thì các bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội trên thị trường thế giới lại đem đến cho thị trường xuất khẩu Lào những tác động ngược lại. Chẳng hạn như suy thoái kinh tế thế giới 2008 - 2009 và các bất ổn trên thế giới những năm gần đây, khiến thị trường xuất khẩu của Lào vào các nước chỉ đạt mức khiêm tốn.

- Các mặt hàng khoáng sản, tài nguyên, nông, lâm sản chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Lào song đây lại chính những mặt hàng mà giá cả thế giới biến động thất thường nhất.

- Cùng với xu thế hội nhập, ngày càng xuất hiện nhiều rào cản thương mại mới tinh vi hơn (như chống bán phá giá, tiêu chuẩn xã hội, môi trường…) gây khó khăn không nhỏ cho phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa của Lào.

- Làm sáng mới các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương giữa các nước đã đem đến nhiều bất lợi cho hàng xuất khẩu và thị trường của Lào do bị phân biệt đối xử.

- Lào không có cảng biển, xuất khẩu phải qua quá cảnh làm tăng giá


thành hàng hóa xuất khẩu.

- Do cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ nặng nề ở Đông Nam Á năm 1997 đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của Lào, nên xuất khẩu của Lào trong năm 1997 đã giảm xuống 217,45 triệu USD và nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân chỉ đạt 4%/năm, cán cân thương mại bị âm tới 485,65 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân năm 1996 đạt 6,8%, những năm tiếp theo năm 1998 đã khôi phục được, đạt tới 6,9% và có xu hướng tăng lên.

- Trên thị trường thế giới, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, với các quy định chặt chẽ và chứng nhận xuất xứ, tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh và môi trường,…là những thử thách lớn đối với hàng hóa xuất khẩu của các nước đang phát triển nói chung và Lào nói riêng.

* Nguyên nhân chủ quan

- Nhận thức về vai trò của việc xuất nhập khẩu hàng hóa của cán bộ, giới doanh nhân, quần chúng nhân dân còn hạn chế. Vấn đề này một phần do công tác tuyên truyền, phổ biến về hội nhập, thương mại quốc tế mới chỉ thực hiện ở mức độ nhất định cả về nội dung và đối tượng. Mặt khác, một bộ phận lớn các doanh nghiệp chưa tích cực, chủ động trong tìm kiếm và phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa của Lào.

- Do Lào đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ quản lý tập trung sang cơ chế thị trường, những hạn chế về nhân lực, tài lực đã gây cản trở đáng kể đến hiệu quả của các nỗ lực hội nhập và phát triển thị trường kể từ khi Lào mở cửa.

- Đầu tư xã hội cho sản xuất xuất nhập khẩu còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng gia tăng quy mô sản xuất và xuất khẩu. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư chưa cao, còn dàn trải, khiến cơ cấu sản xuất và xuất khẩu chậm được chuyển đổi theo hướng tích cực.

- Năng lực dự báo, nhận biết chính sách, thay đổi trên thị trường quốc tế của các cơ quan quản lý, hoạch định chính sách còn hạn chế, trong khi khả năng thích ứng với bối cảnh mới của thị trường thế giới của các doanh nghiệp


xuất khẩu còn yếu dẫn đến xuất khẩu một số mặt hàng, phát triển thị trường khó khăn.

- Kết cấu hạ tầng và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Lào nhìn chung còn yếu kém, thấp thua xa so với nhiều nền kinh tế khác. Doanh nghiệp Lào chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh doanh chưa bài bản, sức cạnh tranh yếu khi tham gia thị trường thế giới nên thường mang lại một số bất lợi cho doanh nghiệp và nền kinh tế Lào.

- Lào đang trong giai đoạn đầu hội nhập vào thị trường thế giới với xuất phát điểm về kinh tế rất thấp. Với cơ cấu kinh tế lạc hậu, thiếu nguồn lực về tài chính, nhân lực, công nghệ,… để đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu.

- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém, lạc hậu và thiếu đồng bộ.

Nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, đang từng bước chuyển sang cơ chế thị trường còn bỡ ngỡ khó khăn, đội ngũ cán bộ chưa có kinh nghiệm cần bổ sung và đào tạo cho kịp yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường.

Do sản xuất trong nước chưa phát triển sản xuất kiểu tự nhiên, trình độ công nghệ thấp, thiếu tập trung, quy mô nhỏ nên các mặt hàng của Lào chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của các bạn hàng. Bởi vậy, chưa đủ sức đứng vững trên thị trường thế giới. Hơn nữa, hệ thống doanh nghiệp xuất khẩu còn yếu hạn chế, khả năng tiếp cận thị trường và năng lực tài chính còn hạn chế.

- Hệ thống pháp luật đang trong quá trình xây dựng để phù hợp với sự chuyển dịch nền kinh tế sang cơ chế kinh tế thị trường nên vừa thiếu-vừa không đồng bộ. Hệ thống chế biến, bảo quản phục vụ xuất khẩu còn yếu kém lại phân bố thiếu hợp lý, chất lượng chế biến không cao và chi phí sản xuất tăng.

- Việc xây dựng chiến lược xuất khẩu dài hạn, toàn diện mới ở bước đầu, chưa có chiến lược xuất khẩu rõ ràng, nhất là chiến lược thị trường và chiến lược sản phẩm, thiếu kinh nghiệm; chưa đủ cơ sở, trình độ để xây dựng


các kế hoạch, biện pháp phát triển xuất khẩu năng động, hiệu quả, cụ thể là chưa có chương trình phát triển các mặt hàng, thị trường mũi nhọn.

- Sự hiểu biết về thị trường nước ngoài còn hạn chế, hệ thống thông tin thị trường yếu và thiếu tin cậy, do thiếu số liệu thống kê, phân tích, đánh giá tình hình thị trường để dự báo thị trường xuất khẩu.

Tuy Chính phủ đã đưa ra một số chủ trương chính sách quản lý xuất nhập khẩu, nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm, kém hiệu quả, thiếu sự phối hợp giữa các Bộ ngành trong nước. Công tác quản lý nhập khẩu còn gặp nhiều khó khăn, thiếu cán bộ có nghiệp vụ.

Tất nhiên có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại này nhưng phải kể đến những nguyên nhân cơ bản nhất, đó là trình độ kinh tế của đất nước còn thấp, cơ cấu kinh tế nói chung còn lạc hậu, nước Lào nằm trong cơ chế tập trung, bao cấp, lại bị bao vây, cô lập khá lâu, thực tế mới chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa lâu nên không tránh khỏi những bỡ ngỡ, lúng túng. Hơn nữa trong việc đề ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phương châm hướng mạnh ra xuất khẩu, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới còn nhiều lúng túng.


Kết luận chương 2


Chương 2 chủ yếu đã đi sâu phân tích thực trạng và làm rõ rất nhiều vấn đề có liên quan đến xuất khẩu hàng hóa ở Lào trong thời gian vừa qua, trong đó tập trung vào việc:

- Đánh giá khái quát quá trình phát triển xuất khẩu hàng hóa; Phân tích sâu một số cơ chế, chính sách của Nhà nước đã ban hành trong thời gian qua có liên quan đến cơ chế, chính sách xuất khẩu hàng hóa như chính sách mặt hàng, chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, chính sách tín dụng xuất khẩu hàng hóa, chính sách thương nhân, chính sách thuế quan và phi thuế quan, chính sách thị trường … Từ đó đã rút ra được những cơ chế, chính sách nào của Nhà nước tác động tích cực, có hiệu quả đóng góp vào phát triển xuất khẩu nói chung và của mặt hàng chủ lực xuất khẩu nói riêng; cũng như một số cơ chế, chính sách của Nhà nước đã ban hành ra, nhưng trong quá trình triển khai không triển khai được hoặc hiệu quả đem lại còn hạn chế.

- Đi sâu phân tích, đánh giá một số loại hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Lào trong thời gian qua (dệt may, điện năng, khoáng sản, lúa gạo, cà phê), phân tích đánh giá khá toàn diện từ khối lượng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu, thị phần, thị trường tiêu thụ, chất lượng sản phẩm, giá cả xuất khẩu, công tác dự báo,....

- Đề cập, phân tích, đánh giá một cách tổng quát tình hình xuất - nhập khẩu hàng hóa của thế giới trong thời gian qua, tình hình cung- cầu hàng hóa của thế giới và đưa ra những dự báo về xuất khẩu hàng hóa thế giới và dự báo về xuất khẩu hàng hóa ở Lào trong những năm tới.

Kết quả nghiên cứu của chương 2, là cơ sở để đưa ra các quan điểm, mục tiêu, phương hướng và các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ở nước CHDCND trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ được đề cập tại Chương 3.


Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA Ở NƯỚC CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2020


3.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ Ở NƯỚC CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2020

3.1.1. Bối cảnh trong nước

3.1.1.1. Thuận lợi

Trong 10 năm qua đất nước Lào đã có ổn định về chính trị và trật tự về xã hội trong trình độ tốt và ngày càng vững chắc; khả năng và trình độ sản xuất của ngành kinh tế đã ngày càng vững chắc, kinh doanh đã từng bước sát với thị trường quốc tế, khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước đã dần dần được mạnh lên; cơ cấu kinh tế đã được chuyển đổi; tích cực thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế có kế hoạch, ưu tiên cho các ngành và địa phương. Vị trí địa lý, tài nguyên, thiên nhiên đã thu hút và tạo điều kiện phát triển cho ngành du lịch và đầu tư. Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã được bạn bè quốc tế đánh giá là nơi quá cảnh của khu vực. Sự gia nhập Hiệp hội Đông Nam Á sẽ tạo cơ hội tốt cho các tổ chức chính trị và kinh tế, tài chính để phát triển đất nước. Hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện và sâu sắc. Nhiều cam kết quốc tế đã bước vào giai đoạn thực hiện thực sự, sẽ có những tác động lớn tới nền kinh tế của Lào.

3.1.1.2. Khó khăn, thách thức

Quy mô kinh tế của đất nước còn nhỏ bé và khó có thể phát triển kinh tế với nhịp độ nhanh chóng được; cơ chế, chính sách tài chính - tiền tệ còn yếu kém và khó khăn; về phát triển cơ sở hạ tầng trong nhiều năm nay còn ở trình độ thấp chưa đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh của nền kinh tế; khả năng cạnh tranh và giành lấy khoa học từ nước ngoài còn hạn chế. Nền sản xuất hàng hóa nói chung đang ở trình độ thấp (năng suất, chất lượng, hiệu quả

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/09/2022