Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 18


hướng tự do hóa từng bước thị trường hàng hóa, khuyến khích xuất khẩu hàng hóa. Điều đó thể hiện ở sự thay đổi, cắt giảm, miễn thuế xuất khẩu hàng hóa, mở rộng từng bước tiến tới tự do hóa đối tượng xuất khẩu, giảm dần rồi xoá bỏ giấy phép xuất khẩu, từng bước thu hẹp việc sử dụng hạn ngạch và cuối cùng xoá bỏ hạn ngạch những mặt hàng xuất khẩu.

- Cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu hàng hóa được chuyển dần từ quản lý chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính sang quản lý bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách thông qua việc sử dụng linh hoạt các biện pháp kinh tế, các công cụ chính sách thương mại, như thuế, hạn ngạch, hỗ trợ xuất khẩu, tỷ giá hối đoái... việc tăng dần sử dụng các công cụ chính sách kinh tế thay vì các công cụ hành chính trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa thể hiện đặc điểm chuyển đổi của chính sách xuất khẩu hàng hóa ở Lào. Những nỗ lực đổi mới chính sách của Nhà nước đã có tác động mạnh mẽ tới xuất khẩu hàng hóa, thể hiện ở thành tích cao về xuất khẩu hàng hóa khá thành công của Lào trong 5 năm qua là dệt may, điện năng, gỗ và sản phẩm gỗ, vàng và hàng hóa nông sản. Đến nay là mỏ (đồng, vàng), dệt may, điện lực, gỗ và sản phẩm gỗ, hàng nông sản như: ngô, cà phê, lạc, lúa thóc, chăn nuôi (bò, trâu) và v.v…

- Chính sách trợ cấp trực tiếp cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa và thưởng xuất khẩu đã góp phần làm cho xuất khẩu hàng hóa ở Lào có sự gia tăng liên tục trong nhiều năm, tạo ra được nhiều thị trường mới đầy tiềm năng. Ngoài ra, chính sách trợ giá xuất khẩu đã giúp doanh nghiệp xuất khẩu bớt thua thiệt do giá xuất khẩu giảm, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn và tiếp tục kinh doanh trong điều kiện kém thuận lợi…

Từ Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng NDCM Lào (11/1998) đến nay đã trải qua 12 năm, đất nước Lào đã chuyển từ nền sản xuất kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự đoàn kết của toàn dân, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội năm 1996-2005 đã đi vào cuộc sống, dần dần ổn định cuộc sống của nhân dân. Trong những năm


qua hoạt động kinh doanh xuất khẩu của CHDCND Lào luôn được giữ vững và phát triển vững chắc.

Điều đó được thể hiện ở những thành tựu sau đây:

- Đã đạt được mục tiêu nêu ra và đã góp phần đáng kể vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ 1996-2005 và thời kỳ 2006- 2011. Hoạt động xuất nhập khẩu chính là yếu tố phát huy nội lực rất quan trọng, tạo thêm vốn đầu tư, đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước.

- Đã thực hiện nhiệm vụ “cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định”. (xem bảng 2.4)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

- Về cơ bản đã thực hiện chủ trương “nhập khẩu phải phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống”.

- Đổi mới một cách cơ bản cơ chế xuất nhập khẩu theo hướng xoá bỏ chế độ “độc quyền ngoại thương”, ngày càng mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các ngành sản xuất, các địa phương, các thành phần kinh tế, trong đó có cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giảm thiểu và xoá bỏ hạn ngạch, giấy phép từng chuyến, từ đó góp phần hạn chế cơ chế “xin cho”, cơ chế chính sách để khuyến khích xuất khẩu nhận được sự quan tâm ngày càng lớn, các công cụ tiền tệ vĩ mô như lãi suất, tỷ giá được sử dụng nhuần nhuyễn hơn để khuyến khích xuất khẩu và định hướng nhập khẩu, hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là lần đầu tiên thông qua luật thương mại, chế độ tối huệ quốc, mã số hàng hóa, giảm dần hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tới chế độ “đãi ngộ quốc gia”.

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 18

- Thể hiện ở các chỉ tiêu: doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước, tăng thêm vốn kinh doanh, tài sản cố định. Việc làm của người lao động được giữ vững, thu nhập và đời sống không ngừng được tăng lên.


- Thế và lực của ngành xuất khẩu ngày càng phát triển, vị thế uy tín của ngành ngày càng tăng lên, tạo được lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau trong quan hệ làm ăn với các đối tác trong nước và nước ngoài cũng như với các cấp, các ngành, các tỉnh và các Bộ.

- Đã tạo lập được thị trường, những bạn hàng truyền thống tin cậy, hiểu biết lẫn nhau ở nước ngoài để xuất khẩu sản phẩm. Đã tạo lập được nguồn hàng để cung cấp cho xuất khẩu.

- Có bộ máy quản lý năng động hơn trước kể cả năng lực và trình độ quản lý kinh tế, kinh doanh và trình độ nhân lực. Đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình, nhanh nhậy trong nắm bắt các thông tin về thị trường, giá cả mặt hàng.

- Mặt hàng xuất khẩu đã đạt được mục tiêu đề ra và đóng góp một phần đáng kể vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ 1996- 2005 và 2006-2011. Hoạt động xuất khẩu chính là yếu tố phát huy nội lực rất quan trọng, tạo thêm vốn đầu tư công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa của đất nước.

Tình hình thị trường xuất khẩu được mở rộng, thực hiện nhiệm vụ cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định.

- Đã vượt qua được khủng hoảng thị trường vào đầu những năm 90 do Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị xoá bỏ, về cơ bản thực hiện được chủ trương đa dạng hóa thị trường và đa dạng hóa quan hệ kinh tế, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới.

- Xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 tăng nhanh trung bình 5,5%/năm, so với 1,6%/năm ở thời kỳ 1996-2000; mặt hàng xuất khẩu cũng được đa dạng hóa, ngoài điện, gỗ và sản phẩm gỗ, và hàng may mặc, đã có thêm một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như khoáng sản, cà phê, lâm sản chế biến và xuất hiện


một số sản phẩm khác có tiềm năng; thị trường xuất khẩu được mở rộng, ngoài thị trường như Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc, đã có thêm thị trường Australia, Anh, Pháp, Đức,…

Nhìn chung, trong thời kỳ 2001-2010, lĩnh vực xuất khẩu của CHDCND Lào đã đạt được những thành tựu to lớn, về cơ bản đã thực hiện được những chủ trương nêu ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

2.3.2. Những mặt tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa ở Lào, cũng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Cụ thể như sau:

- Hoạt động đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu vẫn còn thấp, chủ yếu là các sản phẩm hàng hóa thô.

- Các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp chưa chuẩn bị cho việc khai thác các thị trường xuất khẩu.

- Khả năng phân tích dự báo tình hình diễn biến thị trường quốc tế của các cơ quan quản lý, hoạch định chính sách còn hại chế và khả năng thích ứng với bối cảnh mới của thị trường thế giới của các doanh nghiệp xuất khẩu của Lào còn yếu.

- Vẫn chưa vượt qua được hàng rào kỹ thuật của các quốc gia nhập khẩu và các rào cản thương mại mới trong quá trình toàn cầu hóa ngày càng phát triển hơn.

- Chất lượng hàng xuất khẩu không đồng đều và không ổn định.

- Những yếu kém về khoa học công nghệ và phương thức quản lý.

- Chưa tập trung đầu tư cho khoa học nông nghiệp.

- Cơ sở hạ tầng, dịch vụ hỗ trợ còn nhiều bất cập.

Ngoài ra, về chính sách có những hạn chế cụ thể như sau:

Thứ nhất, Lào chưa có chính sách cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa cho dài hạn. Hầu hết các biện pháp chính sách chủ yếu mang tính tình thế,


chắp vá. Qua từng thời kỳ, qua từng năm, các cơ quan nhà nước mới dừng ở việc đánh giá kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng bao nhiêu so với thời kỳ trước, so với năm trước, chiếm tỷ trọng bao nhiêu phần trăm (%) trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước mà thiếu sự đánh giá hiệu quả xuất khẩu các mặt hàng đạt được như thế nào? Có thể thấy, dường như đối với một số mặt hàng đang có tình trạng “xuất khẩu lấy được” để giải quyết vấn đề ứ thừa hàng hóa chứ chưa tính tới hiệu quả lâu dài. Như vậy, chính sách xuất khẩu hàng hóa ở Lào khó trả lời được một số câu hỏi được đạt ra:

- Những mặt hàng xuất khẩu nào là chủ lực mang tính dài hạn đòi hỏi phải tập trung nỗ lực lớn hơn;

- Hiệu quả xuất khẩu từng loại mặt hàng như thế nào về quy mô giá trị gia tăng so với quy mô đầu tư, quy mô lợi nhuận so với quy mô đầu tư, xét về tác dụng thúc đẩy lan truyền đối với các ngành kinh tế khác, lĩnh vực khác;

- Xuất khẩu từng loại mặt hàng đến mức độ, chất lượng và số lượng nào, tương ứng với quy mô vốn đầu tư bao nhiêu là đạt hiệu quả tối ưu [8].

Thứ hai, việc áp dụng chính sách thuế xuất khẩu trong thời điểm những năm qua nhằm mục đích sinh lợi, thu ngân sách nhà nước.v.v... cho nên những chính sách đó phải đều chỉnh cho phù hợp với tình hình cụ thể tại từng thời điểm. Vô hình chung, chẳng hạn như chính sách thuế đã gây cản trở cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất- kinh doanh dài hạn, gây cản trở trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa; việc thường xuyên thay đổi mức thuế suất còn gây cho chính sách thuế thiếu ổn định, chắp vá, gây khó khăn trong thực hiện chính sách.

Ngoài ra, do chưa kết hợp hiệu quả với các chính sách khác, nên đã đem đến một số bất lợi như: (i) không thể hiện được định hướng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hóa; (ii) không tạo định hướng cho sự chuyển dịch của các yếu tố vào sản xuất những mặt hàng có hiệu quả; (iii) chính sách thuế chỉ khuyến khích tăng về mặt lượng, không mang lại sự thay đổi về chất nhờ chuyển dịch cơ cấu và đổi mới công nghệ.


Thứ ba, chính sách mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu chưa gắn kết với nhau. Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu là hai bộ phận của quá trình mua bán quốc tế, chúng có quan hệ mật thiết với nhau vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Xuất khẩu là để có ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu, còn nhập khẩu đảm bảo cung cấp đầu vào cho sản xuất với chất lượng và giá cả hợp lý để nâng cao năng lực sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu. Để thực hiện chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu, chính sách mặt hàng nhập khẩu cần hướng tới phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu (kinh nghiệm từ Trung Quốc cũng đã chỉ rõ vấn đề này). Nhưng thực tế trong những năm qua, chính sách mặt hàng nhập khẩu của Lào chưa gắn với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu. Những ưu đãi qua thuế, ưu đãi đầu tư đã giành nhiều cho sản xuất thay thế nhập khẩu hơn là sản xuất hướng về xuất khẩu. Ví dụ, ngành chế biến gỗ, vàng, đồng, đường, xi măng được hưởng chính sách ưu đãi qua đầu tư, chính sách thuế thấp đối với nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng và thuế nhập khẩu cao đối với thành phẩm, qua đó những ngành này có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển và đáp ứng tốt nhu cầu trong nước nhưng để xuất khẩu thì vẫn không có khả năng cạnh tranh. Trong khi đó những ngành phụ trợ cho mặt hàng có nhiều lợi thế về sản xuất và xuất khẩu như may mặc, da giày, vàng, đồng và điện. Nguyên nhân của những thiếu sót trên là do các nhà hoạch định khi xây dựng chính sách mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu chưa căn cứ vào tín hiệu của nền kinh tế thị trường, chưa đánh giá đúng tiềm năng cũng như mức độ cạnh tranh của người lãnh đạo từ cấp Chính phủ đến cấp ngành, thậm chí đến cả mong muốn của một số doanh nghiệp riêng lẻ.

Thứ tư, chính sách quy định quyền tham gia xuất khẩu trực tiếp vô hình chung đã tạo nên vị thế độc quyền cho một số doanh nghiệp. Điều này, đã dẫn đến tình trạng ép giá khi thu mua sản phẩm xuất khẩu, gây thua thiệt cho doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp cũng có thể chậm trễ trong thu mua hàng hóa vào vụ thu hoạch khi cầu hàng hóa thế giới xuống thấp, gây khó khăn cho


doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm.

Thứ năm, việc Nhà nước sử dụng giấy phép xuất khẩu đã đạt được một số mục tiêu như: thống nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa, kiểm soát hoạt động xuất khẩu hàng hóa quốc gia. Tuy nhiên, việc sử dụng giấy phép xuất khẩu cũng có những hạn chế sau:

- Những quy định về giấy phép xuất khẩu, thủ tục xin giấy phép xuất khẩu rườm rà, phức tạp;

- Những quy định về điều kiện đáp ứng của các doanh nghiệp để được cấp giấy phép xuất khẩu hàng hóa quá cao, khó lòng các doanh nghiệp đáp ứng;

Qua đó đã dẫn đến việc nảy sinh tiêu cực trong việc cấp giấy phép xuất khẩu, dẫn đến đưa và nhận hối lộ trong việc xin giấy phép xuất khẩu. Tất cả những chi phí trên đều được tính vào giá thành sản phẩm làm cho giá thành đẩy lên cao doanh nghiệp khó cạnh tranh.

Thứ sáu, một số quy định trong chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa và thưởng xuất khẩu không rõ ràng, gây khó khăn khi thực hiện chính sách này. Các quy định xét thưởng xuất khẩu còn phức tạp, việc xét duyệt còn chậm trễ dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp mất hào hứng, hiệu quả của chính sách xét thưởng xuất khẩu chưa phát huy hết tác dụng là kích thích doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và tìm kiếm các thị trường xuất khẩu mới.

Thứ bảy, chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hóa thông qua hợp đồng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ký kết hợp đồng tiêu thụ hàng hóa với người sản xuất nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ hàng hóa có tác dụng, nhưng chưa phát huy hiệu quả như mong muốn. Bằng chứng là khi giá hàng hóa thế giới tăng cao, người nông dân sẵn sàng tuồng hàng ra ngoài bán cho tư thương, mà không bán cho doanh nghiệp chế biến hàng xuất khẩu theo hợp đồng đã ký và trái lại khi giá hàng hóa thế giới xuống thấp, doanh nghiệp chế biến cũng bỏ mặc cho người nông dân tự tiêu thụ sản phẩm


làm ra.

Thứ tám, các giải pháp áp dụng nhằm giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với hàng hóa xuất khẩu triển khai còn chậm và chưa hiệu quả. Nhiều chi phí dịch vụ về giao nhận, vận tải đường bộ, hàng không... còn ở mức cao so với khu vực, làm đội giá thành và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Lào. Công tác xúc tiến thương mại chưa có những chuyển biến căn bản, vẫn mang nặng tính tự phát, dàn trải, thiếu chuyên nghiệp, hiệu quả đạt được từ các chương trình xúc tiến thương mại chưa cao. Hệ thống thông tin thương mại, dự báo thị trường nhìn chung chưa đáp ứng được đòi hỏi của công tác quản lý nhà nước cũng như hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa. Các cơ chế chính sách và biện pháp quản lý xuất khẩu còn chưa cụ thể, thiếu tính tổng thể và tầm nhìn dài hạn, do vậy hiệu quả và hiệu lực chưa cao; trong nhiều trường hợp tỏ ra bị động. Sự phối kết hợp của các cơ quan trung ương và địa phương trong công tác xuất khẩu còn lỏng lẻo và kém hiệu quả; tình trạng thiếu cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật có

trình độ nghiệp vụ cao còn khá phổ biến.

Lĩnh vực xuất khẩu trong 5 năm 2001-2005 vẫn còn nhiều khó khăn. Xuất khẩu bình quân đầu người của Lào còn rất thấp do những hạn chế trong các khâu sản xuất hàng hóa với quy mô lớn và chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm. Xuất khẩu hàng nông sản thô, nguyên liệu thô có giá trị gia tăng thấp còn chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu), nên giá trị xuất khẩu thấp và dễ suy giảm khi giá cả biến động không thuận. Ngoài ra, hơn một nửa kim ngạch xuất khẩu của Lào thuộc các loại sản phẩm mà nhu cầu thị trường không ổn định (điện, dệt may) hoặc có khối lượng xuất khẩu giảm dần (gỗ), hoặc giá cả rất biến động (các mặt hàng nông sản).

Riêng xuất khẩu trong quý III, năm 2010-2011 đạt 252 triệu USD, tăng khoảng 21,82% so với quý vừa qua, chủ yếu là xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tăng lên 39% (chiếm 3% của tổng trị giá xuất khẩu) và giá trị xuất khẩu mỏ tăng lên 33% (chiếm 54% của tổng trị giá xuất khẩu); so với cùng giai đoạn

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 28/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí