bên ngoài và điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể. Trong những thời điểm nhất định, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Như vậy, CCKT là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
Những vấn đề chủ yếu liên quan đến CCKT thể hiện ở các nội dung sau:
- Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia trong một thời điểm nhất định và khả năng phát triển trong tương lai;
- Số lượng và tỷ trọng của các nhóm ngành của các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước ở những giai đoạn khác nhau;
- Các mối qua hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố, …và các hình thái vận động hướng vào mục tiêu đã xác định, trong đó có việc thu hút các nguồn lực từ bên ngoài [31; tr. 11-12].
Khi nói tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi một quốc gia, mỗi tỉnh không thể không nói tới CCKT. Nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi tỉnh dù mục tiêu và trình độ phát triển có khác nhau, nhưng đều hướng tới yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Tiền đề cơ bản cho việc thực hiện yêu cầu đó là bảo đảm một CCKT hợp lí và tương thích với những đòi hỏi khách quan của môi trường phát triển kinh tế vĩ mô.
Có nhiều khái niệm khác nhau về CCKT. Tuy vậy, có thể hiểu một cách tổng quát “CCKT là tổng thể các mối quan hệ tỷ lệ về số lượng và chất lượng tương đối ổn định của các bộ phận kinh tế trong những điều kiện thời gian và không gian nhất định của nền kinh tế” [38].
CCKT còn phải được xem xét về nhiều mặt từ phía cung đến cầu, trong đó khái niệm di chuyển cơ cấu khác với khái niệm điều chỉnh cơ cấu. Có những quan điểm cho rằng CDCCKT gắn với khía cạnh nguồn cung vốn đầu tư, còn điều chỉnh CCKT gắn với khía cạnh cầu của nền kinh tế. Việc điều chỉnh CCKT theo ngành là điều chỉnh tỷ trọng các bộ phận trong một ngành. Khi CCKT theo ngành được thay đổi cơ bản sẽ dẫn đến việc CDCCKT theo ngành như việc chuyển từ CCKT nông nghiệp sang CCKT công nghiệp và từ CCKT công nghiệp sang CCKT tri thức.
CCKT còn là một phạm trù trừu tượng. Muốn nắm vững bản chất của CCKT và thực thi các giải pháp nhằm CDCCKT một cách có hiệu quả, cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân.
Có thể bạn quan tâm!
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên - 2
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên - 3
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên - 4
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên - 6
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên - 7
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên - 8
Xem toàn bộ 236 trang tài liệu này.
CCKT là môi trường và là thành quả của các hoạt động riêng biệt của những yếu tố trong nó, được nuôi dưỡng bởi những yếu tố đó. Nó không phải là tổng thể các mối quan hệ xã hội mà là sức mạnh để dẫn dắt, tạo nên các mối quan hệ, nuôi dưỡng các mối quan hệ đó; loại bỏ các mối quan hệ nhất định, tiếp nhận các thực thể mới, loại bỏ các thực thể đã có những dấu hiệu bị lạc hậu.
Theo cách tiếp cận biện chứng và lý thuyết hệ thống mới có thể xem xét khái niệm CCKT như sau: CCKT là một phạm trù kinh tế, là tổng thể của nhiều bộ phận phức hợp và yếu tố hợp thành nền KTQD, tạo nên một tập hợp các mối quan hệ hữu cơ, sự tác động qua lại giữa chúng trong những điều kiện kinh tế - xã hội và không gian, môi trường cụ thể, luôn luôn vận động, thay đổi thể hiện đặc điểm cơ chế của nền kinh tế và tính chất của chế độ xã hội [23; tr. 40-44].
Theo cách tiếp cận biện chứng này, không chỉ đề cập về mặt định lượng mà còn rất coi trọng về mặt định tính thể hiện qua mối quan hệ và tương tác giữa các bộ phận và yếu tố hợp thành, nhất là mối quan hệ và tương tác giữa các chủ thể kinh tế. Mối quan hệ và tương tác giữa các chủ thể kinh tế được biểu hiện qua các mối liên kết theo chiều dọc và liên kết theo chiều ngang. Mối liên kết dọc của các chủ thể kinh tế được biểu hiện qua sự tác động trực tiếp và tác động phản hồi của các các bộ phận cấu thành hệ thống quản lí nền KTQD. Đó là mối liên kết giữa trung ương và địa phương, giữa trung ương với các ngành; giữa ngành, tập đoàn kinh tế với doanh nghiệp. Mối liên kết ngang là mối liên kết bình đẳng giữa các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế (Tổng công ty) hay ngành kinh tế với nhau.
Trong nền kinh tế thị trường các liên kết dọc và ngang là hết sức quan trọng và phức tạp bởi vì các chủ thể kinh tế ngày càng tăng về số lượng. Các chủ thể kinh tế và mối liên hệ giữa chúng giữ vai trò quan trọng nhất, bởi vì nó quyết định tốc độ và quy mô của sự CDCCKT.
1.2.2. Phân loại cơ cấu kinh tế
Theo nghĩa hẹp, CCKT gồm có các loại sau:
Thứ nhất, CCKT thiên về mặt định lượng và xem CCKT là sự hợp thành của CCKT theo ngành, CCKT theo thành phần và CCKT theo vùng lãnh thổ. Trong CCKT theo ngành các nghiên cứu phân tích theo ba nhóm ngành chính cấp một: Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông lâm, ngư nghiệp; Nhóm ngành
công nghiệp: bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng; Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm thương mại, bưu điện, du lịch ...;
CCKT theo ngành là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành (khu vực) chính:
- Nhóm ngành nông nghiệp và khai khoáng: bao gồm các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp khai khoáng.
- Nhóm ngành công nghiệp chế tạo bao gồm các ngành công nghiệp như công nghiệp điện tử, sản xuất chế biến, công nghiệp sản xuất hoá chất, trang phục, công nghiệp khai thác, sản xuất máy móc thiết bị… và công nghiệp xây dựng.
- Nhóm ngành dịch vụ: WTO phân chia dịch vụ chia ra thành 12 ngành sau:
+ Dịch vụ kinh doanh (bao gồm cả dịch vụ chuyên môn và máy tính)
+ Dịch vụ viễn thông
+ Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật
+ Dịch vụ phân phối
+ Dịch vụ giáo dục
+ Dịch vụ môi trường
+ Dịch vụ tài chính (bảo hiểm và ngân hàng)
+ Dịch vụ y tế
+ Dịch vụ du lịch
+ Dịch vụ thể thao, văn hoá, giải trí
+ Dịch vụ vận tải
+ Các dịch vụ khác không nằm trong các loại trên.
Nếu như với các hàng hoá được bảo hộ bằng các biện pháp áp dụng tại biên giới, thì dịch vụ được bảo hộ chủ yếu bằng các quy định trong nước cũng như rào cản về đầu tư trực tiếp vào các ngành dịch vụ. Chẳng hạn như Việt Nam hiện nay
bằng các quy định khác nhau còn chưa khuyến khích mạnh các nhà đầu tư vào các ngành giáo dục, đào tạo, viễn thông, bảo hiểm...
CCKT của một quốc gia luôn có sự thay đổi theo từng thời kỳ phát triển do các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không phải là yếu tố cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành CCKT là không đồng đều.
CCKT theo vùng: Theo các vùng kinh tế của địa phương và đất nước, có thể phân chia theo điều kiện tự nhiên, theo vị trí địa lý hoặc theo các đặc điểm phát triển kinh tế – xã hội.
CCKT theo thành phần: Theo 5 thành phần kinh tế
+ Kinh tế Nhà nước (State);
+ Kinh tế tập thể (Collective);
+ Kinh tế tư nhân (Private);
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ (Household);
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (Foreign Invested Sector).
Thứ hai, theo cách phân loại của Tổ chức thống kê Liên hợp quốc (United Nations Statistics Division) và phân loại ngành tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Industrial Classification - ISIC) thì không hẳn như vậy, theo đó ISIC cho rằng toàn bộ hoạt động kinh tế được phân chia thành 20 ngành và 03 khu vực được thể hiện trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) và cho đến nay hầu hết các nước trên thế giới đều xây dựng và áp dụng SNA và theo đó:
Khu vực I: Sản phẩm khai thác từ tự nhiên (ở Việt Nam quen dùng là nhóm ngành nông nghiệp): (1) Nông nghiệp và lâm nghiệp, (2) Thủy sản, (3) Công nghiệp và khai thác mỏ.
Khu vực II: Chế biến từ sản phẩm khai thác - nhóm ngành công nghiệp, bao gồm: (4) Công nghiệp chế biến, (5) Xây dựng, (6) Sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước.
Khu vực III: Khu vực dịch vụ bao gồm: (7) Thương mại, sửa chữa xe con động cơ, mô tô, xe máy và đồ dùng cá nhân và gia đình, (8) Du lịch, khách sạn –
Nhà hàng, (9) Vận tải, kho bãi và bưu chính viễn thông, (10) Tài chính, ngân hàng,
(11) Hoạt động khoa học công nghệ, (12) hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, (13) Quản lí nhà nước, an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội,
(14) Giáo dục và đào tạo, (15) Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội, (16) Hoạt động văn hóa, thể thao, (17) Hoạt động Đảng, Đoàn thể, hiệp hội, (18) Hoạt động dịch vụ phục vụ cá nhân và cộng đồng, (19) Dịch vụ phục vụ trong các hộ gia đình, (20) Hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế.
Thứ ba, căn cứ vào nội dung của của bảng phân loại hoạt động sản xuất của Liên Hiệp quốc thể hiện ở trên, Thủ tưởng Chính phủ đã kí quyết định số 75/CP ngày 27/10/1993 ban hành bảng phân ngành KTQD thực hiện thống nhất trong cả nước. Trong bảng phân ngành KTQD của Việt Nam có một số điểm khác với ISIC là ngành khai thác mỏ thuộc khu vực II, trong khi đó theo ISIC ngành khai thác mỏ thuộc khu vực I. Cho nên, khi so sánh cơ cấu nền KTQD của nước ta với các nền kinh tế khác trên thế giới sẽ không tương thích và có một số sự sai lệch đáng kể về số liệu [23; tr. 42-44].
Theo nghĩa rộng, CCKT gồm có các loại sau:
Là cơ cấu tái sản xuất được hiểu như một mạng lưới hay tập hợp các yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau giữa các bộ phận phức hợp, hợp thành, các điều kiện, các kết quả và tiến trình của quá trình tái sản xuất được diễn ra trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định được biểu hiện cả về mặt định tính và định lượng xác định tính chất và đặc trưng cơ chế của nền KTQD.
Cách tiếp cận CCKT theo nghĩa rộng, khi phân tích về mặt định lượng không đơn giản chỉ xét tiêu chí đầu ra – GDP mà còn được xét đến cơ cấu đầu vào của các yếu tố sản xuất (như vốn, lao động, công nghệ, TLSX ...) đầu tư phân phối và ngoại thương; có như vậy mới đánh giá được hiệu quả của CCKT và hiệu quả của CDCCKT.
1.2.3. Cơ cấu kinh tế hợp lí
Lựa chọn CCKT và được điều chỉnh một cách hợp lí trong từng thời kì sẽ tạo ra khả năng tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, đạt hiệu quả kinh tế lớn và
sức cạnh tranh của nền kinh tế cao. Các bộ phận hợp thành CCKT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó CCKT theo ngành có vai trò quyết định, nó xác định rõ sản xuất cái gì và bao nhiêu theo yêu cầu của thị trường thì đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất; CCKT theo vùng chỉ rõ ở những vùng nào sản xuất cái gì và bao nhiêu có hiệu quả nhất; còn CCKT theo thành phần chỉ rõ thành phần kinh tế nào, cái gì và sản xuất bao nhiêu là có hiệu quả kinh tế nhất.
CCKT là một phạm trù kinh tế không mang tính cố định mà luôn ở trạng thái động, không theo khuôn mẫu thống nhất. Nó tùy thuộc vào những đặc điểm về điều kiện phát triển kinh tế ở từng thời kì của mỗi quốc gia với không gian và thời gian nhất định. Vấn đề đặt ra là làm sao lựa chọn được một CCKT hợp lí, có hiệu quả về CCKT theo ngành đảm bảo được những cân đối chủ yếu của ngành kinh tế thúc đẩy được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển kinh tế – xã hội bền vững mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn, có tích lũy nhiều và sức cạnh tranh cao của nền kinh tế. Nói một cách cụ thể là khi đánh giá một CCKT hợp lí, chúng ta cần dựa vào các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển, hiệu quả kinh tế – xã hội, mức độ tích lũy cho nền kinh tế, khối lượng xuất khẩu và chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu, tính ổn định của xã hội, mức sống của đại bộ phận dân cư, trình độ phát triển toàn diện của con người, mức độ thất nghiệp và khả năng hội nhập của nền kinh tế.
Để đạt được một CCKT hợp lí trong từng thời kì của mỗi quốc gia, trước hết phải phát huy đầy đủ nội lực của các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế; đẩy mạnh xuất khẩu; thực hiện triệt để tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh và tiêu dùng; khuyến khích để thu hút tối đa nguồn vốn, công nghệ, thiết bị, chất xám của nước ngoài để khai thác và phát huy tối đa nguồn lực hiện có nhằm tăng nhanh thu nhập quốc dân trên đầu người hoặc trên một đồng chi phí và ngược lại.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng: “CCKT hợp lí là CCKT trước hết nó thúc đẩy quá trình tăng cầu có khả năng thanh toán (yêu cầu- demands) và tăng cung tương ứng để bảo đảm sự cân bằng tương đối trong quan hệ cung - cầu trên thị trường nhằm khắc phục mặt trái, mặt tiêu cực của CCKT thay đổi theo quan hệ cung - cầu và giá cả thị trường”.
Qua lịch sử phát triển kinh tế của các nước trên thế giới cho thấy có các mô hình kinh tế như sau: đối với các nước có nền công nghiệp phát triển, có vốn tích lũy nhiều, thì người ta lựa chọn mô hình cơ cấu kinh tế ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; đối với các nước có xuất phát điểm thấp là nền kinh tế nông nghiệp, dân cư nông nghiệp chiếm tuyệt đại bộ phận thì người ta lựa chọn mô hình cơ cấu kinh tế dựa trên cơ sở ưu tiên phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đó là xu hướng đúng đắn, tất yếu của CDCCKT phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của đất nước, đối với một địa phương cũng không nằm ngoài xu hướng này. Thực tiễn đã cho thấy nước nào đi đúng quy luật này và điều chỉnh kịp thời thì sẽ thành công, ngược lại sẽ kém hiệu quả dẫn đến tổn thất và thất bại. Trung Quốc và Việt Nam là hai nước có những đặc điểm tương đồng. Nhưng thời kì phát triển của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã vận dụng máy móc kinh nghiệm của Liên Xô cũ và chọn sai mô hình CCKT, lấy ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, do đó đã gây ra hậu quả là nền kinh tế phát triển chậm và kém hiệu quả. Liên Xô cũ đã duy trì quá lâu mô hình CCKT trên cơ sở phát triển công nghiệp nặng cũng đã dẫn đến hậu quả nền kinh tế phát triển chậm và kém hiệu quả [18; tr. 3-4].
1.2.4. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) là sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển. Ở đây không đơn thuần là sự thay đổi về vị trí, mà là sự biến đổi cả về số lượng và chất lượng trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến đổi cơ cấu cũ thành một cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế về thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu ngành, vùng, thành phần kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia.
CDCCKT diễn ra một cách thường xuyên, liên tục theo hai khuynh hướng đó là: chuyển dịch tự phát và chuyển dịch tự giác – có chủ đích. Chuyển dịch tự phát là
CDCCKT do các yếu tố kinh tế – kĩ thuật nội bộ tác động nhằm thích ứng với bối cảnh mới của nền kinh tế; còn CDCCKT tự giác (chủ động) là sự nhận thức được yêu cầu khách quan, kết hợp giữa các yếu tố khách quan và chủ quan để tác động sao cho quá trình CDCCKT đáp ứng được mục tiêu phát triển của đất nước [14].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu ảnh hưởng của việc tăng năng suất lao động và tăng vốn đầu tư so với các yếu tố sản xuất khác, bên cạnh đó là sự thay đổi giữa các khu vực kinh tế tạo ra sản lượng (một yếu tố nằm trong hàm sản xuất). Cơ cấu kinh tế ngành của các nước đang hướng tới đó là công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp và tiếp theo là CCKT ngành dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp. Cơ cấu này cho phép phát huy lợi thế của từng nước, tiếp thu các yếu tố mới của khoa học công nghệ và đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế thế giới.
Khi GDP trên đầu người tăng lên thì diễn ra quá trình chuyển dịch từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang khu vực sản xuất công nghiệp. Tỷ trọng của nông nghiệp giảm trong cơ cấu GDP khi tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp lại tăng lên trong cơ cấu GDP. Có sự phân bổ các yếu tố sản xuất như tập trung nhiều vào khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tương ứng các yếu tố sản xuất ở khu vực nông nghiệp (theo Simon Kuznet).
CDCCKT là một xu hướng tất yếu của nền kinh tế mỗi quốc gia, mỗi địa phương bởi vì:
- Điều kiện kinh tế xã hội luôn luôn thay đổi theo thời gian và không gian, cho nên đòi hỏi CCKT phải chyển dịch cho phù hợp; hơn nữa ngay trong quá trình phát triển kinh tế mỗi nước, mỗi địa phương thì đều phát hiện thấy được những mất cân đối bất hợp lí mà chính trong quá trình phát triển đó phải cân đối lại, điều chỉnh kịp thời để làm cho CCKT thích ứng; trong quá trình phát triển kinh tế, tài nguyên và nguồn lực ngày càng khó khăn, khan hiếm nhưng nhu cầu của con người lại phát triển cả về quy mô, chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Do vậy, phải tìm cách lựa chọn tối ưu phương hướng phát triển, trong đó có lựa chọn CCKT mới hợp lí hơn (hay CDCCKT hợp lí hơn).