Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên - 7


chế tạo máy. Cách tốt nhất là quan tâm đến cung cấp các yếu tố đầu vào cho xuất khẩu trong khi cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được đầy đủ. Tài quản lí của Chính phủ ở đây là sự lựa chọn sáng suốt sự thay thế nhập khẩu có hiệu quả và đẩy mạnh xuất khẩu. Xây dựng một chính sách thương mại quốc tế cho phù hợp với nền kinh tế đang phát triển, nhằm phục vụ tốt nhất các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

CDCCKT hướng ngoại rất có ý nghĩa đối với thuế quan và các hình thức khác của chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá hối đoái và quản lí kinh tế vĩ mô trong nước. Sự mở cửa nền kinh tế có liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu hoặc tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán. Việc quyết định hướng ngoại cho dù ở mức độ nào thì nó cũng có nhiều tác động quan trọng đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Nó sẽ ảnh hưởng tới việc phân bổ sản xuất giữa các mặt hàng trao đổi được xuất và nhập khẩu, cường độ sử dụng nguồn lực và sự phân phối thu nhập thông qua những tác động đối với thị trường nhân tố sản xuất và thị trường sản phẩm tiêu dùng; mặt khác còn ảnh hưởng tới việc phân bổ đất đai và các nguồn lực khác giữa cây lương thực và cây trồng phục vụ xuất khẩu…

Ưu điểm của mở cửa là thúc đẩy quá trình đổi mới và tăng năng suất lao động nhanh, tạo ra khả năng thích nghi của nền kinh tế, tác động tốt đến quá trình phát triển dài hạn, có tác dụng tốt đối với sự tăng trưởng GDP.

Tuy nhiên, chiến lược kinh tế mở cửa sẽ mang lại cho địa phương và Chính phủ nước đó ít có khả năng hành động theo ý mình hơn; có tác dụng xấu tới công nghệ trong nước do phải dựa vào tư liệu và công nghệ nhập khẩu, đặc biệt đối với các nước nhỏ có thu nhập thấp mà nền kinh tế của họ ở vào vị thế không thuận lợi. Thực hiện chính sách thuế nhập khẩu tương đối cao ở giai đoạn đầu có thể đem lại ảnh hưởng xấu là tăng giá tiêu dùng và một số ngành sản xuất thay thế nhập khẩu. Ngoài ra, khi các điều kiện quốc tế trở nên không thuận lợi thì rủi ro có thể xẩy ra, đem lại không ít hậu quả xấu cho nền kinh tế - xã hội trong nước.

ii) CDCCKT của địa phương theo mô hình hướng nội

Với mục tiêu là phát huy tính chủ động của địa phương trong quản lí kinh tế, đảm bảo và duy trì sự phát triển của các ngành sản xuất truyền thống, nhiều nơi trên thế giới đã thực hiện chính sách CDCCKT theo mô hình hướng nội (tức trong tỉnh).


Mô hình hướng nội là chính sách CDCCKT có xu hướng hướng nội, với chiến lược đóng cửa nhiều hơn. Nó khuyến khích theo hướng sản xuất cho thị trường trong tỉnh và trong nước, nhấn mạnh việc thay thế nhập khẩu, tự túc về lương thực và có thể cả các mặt hàng phi mậu dịch.

Ban đầu các địa phương ở các nước đang phát triển lựa chọn các chính sách CDCCKT nhằm thúc đẩy tính tự lực quốc gia, đặc biệt là tăng cường sản xuất lương thực, các nông sản và khoáng sản không được nhập khẩu. Các biểu thuế nhập khẩu cao hoặc hạn ngạch nhập khẩu lương thực được thực hiện, đồng thời cũng đánh thuế vào hàng nhập khẩu nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách từ thuế và làm giảm sức cạnh tranh của nền nông nghiệp định hướng xuất khẩu tương đối so với nền nông nghiệp hướng nội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 236 trang tài liệu này.

Các chính sách trên sẽ đem tới sự mở rộng cho các ngành công nghiệp nhỏ với sự trợ cấp thích hợp và khuyến khích công nghiệp thay thế nhập khẩu. Bên cạnh chính sách bảo hộ chung, họ còn thực hiện sự hỗ trợ có lựa chọn cho nền công nghiệp thay thế nhập khẩu thường được gọi là nền công nghiệp non trẻ.

Chiến lược đóng cửa là thực hiện CNH, HĐH theo hướng thay thế nhập khẩu, núp đằng sau bức tường bảo hộ mậu dịch. Do vậy, ít tạo ra sức ép về cạnh tranh hơn, làm cho cơ cấu sản xuất ít nhạy bén hơn, đông cứng hơn. Ngoài ra, một chiến lược dựa trên cơ sở bảo hộ mậu dịch và thay thế nhập khẩu có xu hướng kèm theo sự hối lộ và độc đoán, gây ra sự trì trệ trong quá trình phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng GDP.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên - 7

iii) CDCCKT theo hướng kết hợp khai thác nguồn lực nội tại của địa phương với mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài

Mô hình chung nhất của hầu hết các quốc gia trên thế giới khi phát triển nhanh là một nền kinh tế năng động: công nghiệp hóa cùng với sự phát triển cân đối giữa các ngành; phát triển hệ thống tài chính, tăng cường các mối quan hệ tài chính nhằm khuyến khích đạt tỷ lệ đầu tư cao; vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc hoạch định chính sách và điều chỉnh kinh tế, có khả năng đối phó với những biến động bất thường của nền kinh tế trong nước cũng như ở nước ngoài. Có thể xem xét vai trò của từng nhân tố.


Đẩy mạnh công nghiệp hóa cùng với sự phát triển cân đối các ngành:

- Đây là loại yếu tố có lợi đặc biệt so với phương án chuyên môn hóa trong sản xuất nông nghiệp. Mô hình này cũng không ủng hộ chiến lược phát triển một ngành duy nhất; nó khẳng định đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển, và nó cũng có khả năng ứng phó linh hoạt với những biến đổi bất thường và dễ hòa nhập với quốc tế.

- Thực vậy, chẳng hạn một địa phương tìm cách phát triển mà lấy nông nghiệp làm ngành chủ đạo, địa phương đó phải thực hiện chính sách sản xuất sao cho xuất khẩu nông sản phải đạt được một mức thu nhập đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước ngày càng tăng về sản phẩm chế biến thông qua nhập khẩu. Trong điều kiện là hệ số co giãn của nhu cầu trên thế giới về hàng nông sản là rất thấp, vì vậy con đường phát triển sẽ gặp khá nhiều khó khăn. Theo số liệu thống kê thì ngay cả ở các nước thành công trong việc theo đuổi đường lối này, tỷ trọng của giá trị nông nghiệp trong GDP cũng rất thấp (cụ thể ở Australia là 4%, ở Niu Dilân là 8% năm 1989), trong khi đó tỷ trọng giá trị ngành công nghiệp trong GDP lớn hơn nhiều (tương ứng ở hai quốc gia trên là 15% và 17%). Mặt khác, ngành công nghiệp còn là ngành có ưu thế hơn trong việc tạo ra tiến bộ kĩ thuật, tận dụng những đặc trưng của nền sản xuất hiện đại, khuyến khích tăng trưởng trong các khu vực khác của nền kinh tế thông qua việc mua sắm các yếu tố đầu vào, sản xuất đầu ra là các thành phẩm và tư liệu sản xuất.

- Tuy nhiên, sự phát triển lành mạnh của ngành nông nghiệp và khai khoáng vẫn có ý nghĩa sống còn đối với thành công của tiến trình công nghiệp hóa. Chúng không những cung cấp phần lớn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến, mà còn là nơi cung cấp vốn và lao động cho công nghiệp và tạo ra nhu cầu trong nước về sản phẩm tiêu dùng của công nghiệp. Ngoài ra, sự thành công của hai ngành này còn có ý nghĩa sống còn trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, HĐH.

Phát triển hệ thống tài chính, tăng cường các mối quan hệ nhằm khuyến khích đạt tỷ lệ đầu tư cao cho nền kinh tế:

Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển thì hệ thống tài chính tăng trưởng nhanh hơn nhiều so với GDP và của cải. Tuy nhiên, mối quan hệ nhân quả không phải là một chiều và sự phát triển của khu vực tài chính đã đáp ứng lại nhu


cầu ngày càng tăng của các khu vực khác trong nền kinh tế về dịch vụ tài chính, cụ thể ở những khía cạnh sau :

- Giảm rủi ro và tạo ra nguồn tài chính do thu hút ngày càng tăng tổng mức tiết kiệm, tăng vốn đầu tư cho sản xuất, ngăn cản thất thoát vốn ra nước ngoài.

- Thúc đẩy, nâng cao hiệu quả đầu tư, tạo điều kiện đa dạng hóa các công cụ tài chính; đáp ứng nhu cầu của người tiết kiệm và các nhà đầu tư về mức độ rủi ro và lợi nhuận.

- Gây áp lực để buộc các nhà đầu tư phải sử dụng các nguồn lực nhằm thu được lợi nhuận tối đa để trả nợ và giữ được chữ tín để có thể tiếp tục vay nợ.

- Cung cấp một hệ thống thanh toán có hiệu quả và an toàn hơn, giảm rủi ro và chi phí của các giao dịch tài chính.

Như vậy, khu vực tài chính hoạt động tốt sẽ thúc đẩy gia tăng đầu tư với tỷ suất lợi nhuận khả quan nhất và chi phí giao dịch thấp nhất. Điều quan trọng là nó có thể khuyến khích tính linh hoạt kinh tế bằng cách tăng hiệu quả của chính sách tiền tệ, tạo một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và tăng khả năng điều chỉnh nhu cầu về tiền tệ thông qua chính sách lãi suất và các chính sách khác.

Vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước đối với nền kinh tế:

Trên thực tế có thể thấy, đó là một nhà nước hoạt động có hiệu quả sẽ tạo ra những thành phần có tính chất sống còn cho sự phát triển. Một lựa chọn tốt nhất là thị trường phải được phát triển trong sự vận hành của Nhà nước với một môi trường chính sách lành mạnh và ổn định cộng thêm một số dịch vụ xã hội cơ bản. Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của hệ thống hành chính Nhà nước sẽ phải tìm được sự tương xứng đúng đắn giữa vai trò và năng lực của những chính sách với kết quả của phát triển. Đó là việc điều tiết, tự do hóa và những chính sách kinh tế được thiết lập để khuyến khích thị trường và xã hội; tạo cơ hội và điều kiện phát triển cho khu vực tư nhân, tận dụng sáng kiến của tư nhân và thị trường cạnh tranh; cung cấp những hàng hóa và dịch vụ công cộng thuần túy mà các thị trường không cung cấp đầy đủ; hoạch định những chính sách hợp lí nhằm củng cố và tăng cường niềm tin trong dân chúng. Những công việc Nhà nước cần làm trong quá trình CDCCKT là:

- Đảm bảo nguyên tắc kinh tế thị trường và đáp ứng các mục tiêu xã hội.

- Xây dựng thể chế cho một khu vực Nhà nước có năng lực điều hành vĩ mô.


- Kiềm chế hành động độc đoán chuyên quyền của Nhà nước và nạn tham nhũng, đưa Nhà nước tới gần dân hơn.

- Hoạch định chính sách điều chỉnh đối với CDCCKT.

Xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, có thể nhận định rằng việc lựa chọn một nền kinh tế đóng, tự cung tự cấp không phải là một lựa chọn đúng đắn cho một nền kinh tế có quy mô nhỏ, có thu nhập thấp. Trong khi đó, một nền kinh tế mở cửa có thể thúc đẩy thương mại và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Do đó, việc đưa ra chiến lược kinh tế mở cửa hay đóng cửa có một ý nghĩa rất lớn đối với từng địa phương.

Chính quyền địa phương một mặt có thể tự giới hạn mình trong một số hành động can thiệp hạn chế, khuyến khích quá trình CDCCKT bằng cách cung cấp thông tin, tư vấn, kết cấu hạ tầng, một khuôn khổ pháp luật và tài chính nhằm hỗ trợ cho mỗi hình thức thay đổi, tìm mọi cách làm giảm bớt những xung đột về lợi ích phát sinh, hạn chế những tổn thất do quá trình CDCCKT gây ra. Ngoài ra, Chính phủ có thể chủ động điều tiết giá cả và các khuyến khích khác theo hướng có lợi, và trực tiếp tham gia vào quá trình thay đổi với tư cách là người điều tiết, người chủ và người đầu tư. Điều đó xuất phát từ lí lẽ cho rằng các hoạt động thị trường chỉ diễn ra một cách từ từ và tăng dần, chuyển dần các nguồn lực; trong khi CDCCKT lại bao gồm cả những thay đổi cấp tiến hơn, mạnh mẽ hơn và do đó cần có bàn tay định hướng của Nhà nước. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, do những khó khăn về ngoại tệ và tích lũy, các Chính phủ lại càng cần phải đạt được sự điều chỉnh nhanh chóng và cấp bách. Hơn nữa, hệ số co dãn giá cả trong giai đoạn ngắn thường là nhỏ, nên ban đầu chỉ đưa lại những phản ứng hạn chế. Thêm vào đó, tính chất không hoàn hảo của thị trường rất phổ biến ở các nước nhỏ có thu nhập thấp.

Tất cả những lí do trên đã giải thích tại sao Nhà nước có một vai trò quan trọng như vậy trong quá trình thúc đẩy CDCCKT. Ngoài ra, môi trường chính sách cũng quan trọng đối với những mặt khác như khả năng duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ, tránh được tình trạng gia tăng lạm phát; thất nghiệp với quy mô lớn do giảm phát và thâm hụt lớn về cán cân thanh toán… cũng tạo ra sự bền vững và khả năng dự báo tác dụng của những khuyến khích góp phần thúc đẩy đầu tư dài


hạn và phản ứng của giá cả, những yếu tố rất quan trọng có khả năng thích ứng đối với nền kinh tế.

Tạo điều kiện dễ dàng cho các hoạt động hợp tác quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường với sự tự do kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp:

CDCCKT theo hướng kết hợp khai thác nguồn lực trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài là hướng đi phổ biến cho hầu hết các nước đang phát triển trong những thập niên gần đây.

1.2.8. Các nhân tố chủ yếu tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế


Các xu hướng tác động của nền kinh tế thế giới

Mức độ hội nhập của nền kinh tế địa phương

Khoa học công nghệ

Môi trường thể chế, chính sách

Đầu tư: trong nước và ngoài nước

C ể ịch c cấ kinh tế của địa phương,

của tỉnh

Lao động: trong nước và ngoài nước

Nguồn lực và lợi thế so sánh của địa phương

Thái độ của Nhà lãnh đạo, quản lý nhà nước về kinh tế

Trên thực tế có rất nhiều yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến CDCCKT của mỗi địa phương, mỗi tỉnh. Tuy nhiên, có thể nói đến các yếu tố cơ bản sau đây tác động đến CDCCKT đó là:


Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ tác động của các nhân tố đến CDCCKT

i) Khoa học công nghệ và khả năng ứng dụng khoa học công nghệ

Yếu tố này có ảnh hưởng sâu sắc mạnh mẽ đến CDCCKT. Tiến bộ khoa học và công nghệ một mặt làm xuất hiện nhiều loại nhu cầu mới, tác động đến sự thay đổi số lượng, tăng mức nhu cầu của ngành này hay ngành khác, làm thay đổi tốc độ phát triển và mối tương quan tốc độ phát triển giữa các ngành.

Tiến bộ khoa học và công nghệ tạo ra những khả năng sản xuất mới, mở rộng ngành nghề và tăng trưởng các ngành sản xuất chuyên môn hóa, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế.


ii) Nguồn lực phát triển và lợi thế so sánh của địa phương

Việc xác định các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực (cả trong và ngoài nước có khả năng khai thác) để chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành mà địa phương có lợi thế và có điều kiện phát triển mới tạo đà hội nhập và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.

Tài nguyên thiên nhiên (như khoáng sản, lâm hải sản, nguồn nước,...) và các điều kiện tự nhiên (như khí hậu, thời tiết, bờ biển...) phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp du lịch, ngư nghiệp, nông nghiệp... Song việc khai thác các yếu tố này phục vụ phát triển và CDCCKT còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Ở mỗi một giai đoạn phát triển, người ta thường tập trung khai thác các tài nguyên có lợi thế, trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và ổn định... Do đó, sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành và CDCCKT, là nhân tố phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu.

iii) Trình độ và tính chất của mối quan hệ kinh tế đối ngoại

Đây là một nhân tố tác động quan trọng đến CDCCKT. Nhân tố này bao gồm các quan hệ về thu hút vốn đầu tư trong đó có FDI, tổ chức liên doanh liên kết với nước ngoài, phát triển ngoại thương. Tác động của nhân tố này sẽ xuất hiện những ngành sử dụng được lợi thế so sánh để hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá của mỗi địa phương trong phân công lao động quốc tế. Đó sẽ là những ngành chủ lực sản xuất hàng xuất khẩu.

iv) Dân số và lao động

Đây là nguồn lực quan trọng cho CDCCKT. Muốn CCKT thay đổi, điều kiện tất yếu phải thay đổi cơ cấu lao động và cơ cấu ngành nghề, việc làm. Do vậy, lao động; dân số trong nước và ngoài nước có một vai trò rất quan trọng đối với CDCCKT.

Kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới... là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và nâng cao


hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các ngành đang hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân.

Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hướng lớn đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng.

Sự phát triển của các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như trong các ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền thống, phong tục của một địa phương. Sự phát triển và sự chuyển hoá của các nghề này gắn chặt với đội ngũ các nghệ nhân. Sản phẩm của các ngành nghề này hầu hết là các sản phẩm độc đáo, có ưu thế và được ưa chuộng trên thị trường quốc tế. Vị trí địa lý của đất nước cũng là một yếu tố cần phải được xem xét khi hình thành cũng như định hướng CDCCKT. Yếu tố này trở nên quan trọng trong điều kiện xây dựng nền kinh tế mở, tăng cường mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Đó là các yếu tố phải tính đến trong định hướng CDCCKT theo hướng mở cửa và hội nhập.

v) Môi trường thể chế, chính sách

Đây là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và CDCCKT. Môi trường thể chế, chính sách thường gắn bó chặt chẽ với thể chế chính trị và đường lối xây dựng kinh tế. Nói cách khác, quan điểm đường lối chính trị nào sẽ có môi trường thể chế chính trị đó, đến lượt nó, môi trường thể chế lại ước định các hướng CDCCKT theo ngành nói chung cũng như cơ cấu nội bộ từng ngành, từng vùng và thành kinh tế. Trong quá trình CDCCKT (cho dù định hướng chuyển dịch theo hướng nào) thì Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định chiến lược, định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực và đầu tư theo ngành, theo vùng lãnh thổ.

vi) Nguồn vốn FDI và các nguồn vốn đầu tư khác

Nguồn vốn đầu tư được tích luỹ trong xã hội nhằm tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn của nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư bao gồm:

- Vốn đầu tư trong nước (vốn của các doanh nghiệp trong nước, vốn từ ngân sách nhà nước, vốn huy động trong dân cư).

- Vốn đầu tư nước ngoài: bao gồm vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn đầu tư gián tiếp (FPI).

Xem tất cả 236 trang.

Ngày đăng: 26/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí