Nghiên Cứu Về Yếu Tố Địa Lý Cấu Thành Hệ Thực Vật


hoạ khôn lường. Để tránh sự huỷ hoại các nguồn tài nguyên chúng ta phải tôn trọng các quy luật của tự nhiên.

Vì vậy tháng 6 năm 1992 Hội nghị thượng đỉnh bàn về vấn đề môi trường và đa dạng sinh vật được tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil) có 150 nước đã ký vào Công

ước về đa dạng sinh vật và bảo vệ chúng. Từ đó nhiều hội thảo được tổ chức nhằm thảo luận và có nhiều cuốn sách mang tính chất chỉ dẫn ra đời. Năm 1990 WWF đã cho xuất bản cuốn sách nói về tầm quan trọng về đa dạng sinh vật (The importance of biological diversity) hay IUCN, UNEP và WWF đưa ra chiến lược bảo tồn thế giới (World conservation strategy) Wri, IUCN và WWF đưa ra chiến lược sinh vật toàn cầu (Global biological strategy). Năm 1991 Wri, Wcu, WB, WWF xuất bản cuốn bảo tồn đa dạng sinh vật thế giới (Conserving the World's biological diversity) hoặc IUCN, UNEP, WWF xuất bản cuốn "Hãy quan tâm tới trái đất" (Caring for the earth). Cùng năm, Wri, IUCN và UNEP xuất bản cuốn chiến lược đa dạng sinh vật và chương trình hành động; Tất cả các cuốn sách đó nhằm hướng dẫn và đề ra các phương pháp để bảo tồn đa dạng sinh học, làm nền tảng cho công tác bảo tồn và phát triển trong tương lai.

Năm 1992 - 1995 WCMC công bố một cuốn sách tổng hợp (Đánh giá đa dạng sinh vật toàn cầu) các tư liệu về đa dạng sinh vật của các nhóm sinh vật khác nhau ở các vùng khác trên toàn thế giới (Global biodiversity assessment) làm cơ sở cho việc bảo tồn chúng có hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, hàng ngàn tác phẩm, những công trình khoa học khác nhau ra

đời và hàng ngàn cuộc hội thảo khác nhau được tổ chức nhằm thảo luận về quan

điểm, về phương pháp luận và thông báo các kết quả đã đạt được ở khắp mọi nơi trên toàn thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế hay khu vực được nhóm họp tạo thành mạng lưới phục vụ cho việc đánh giá bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học.

1.2.1.2. Việt Nam

Ngay từ thế kỷ 18, Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về thực vật như các công trình của Loureiro (1790) sang thế kỷ 19 có công trình của Pierre (1879 - 1907) và cho đến những năm đầu thế kỷ xx đã xuất hiện một công trình nổi tiếng, là nền tảng cho việc đánh giá tính đa dạng thực vật Việt Nam, đó là bộ Thực


vật chí Đại cương Đông Dương do Lecomte chủ biên (1907 - 1952). Trong công trình này, các tác giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khoá mô tả các loài thực vật có mạch trên toàn bộ lãnh thổ Đông Dương, con số kiểm kê và được đưa ra 7004 loài thực vật bậc cao có mạch. Tuy nhiên con số này còn ít xa so với số loài thực có ở 3 nước Đông Dương. Gần đây, đáng chú ý nhất phải kể đến bộ Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ (1991 - 1993) xuất bản tại Canada và đã được tái bản có bổ sung tại Việt Nam (1999 - 2000); bộ sách Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam (2001 - 2005). Đây là những bộ sách đầy đủ nhất và dễ sử dụng nhất góp phần đáng kể cho nghiên cứu khoa học thực vật ở Việt Nam.

Trên cơ sở bộ thực vật chí Đông Dương, Thái Văn Trừng (1978) đã thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài, 1850 chi và 289 họ. Trong đó, ngành Hạt kín có 3366 loài (90,9%), 1727 chi (93,4%) và 239 họ (82,7%). Ngành Dương xỉ và họ

hàng Dương xỉ có 599 loài (8,6%), 205 chi (5,57%) và 42 họ (14,5%). Ngành Hạt

trần 39 loài (0,5%), 18 chi (0,9%) và 8 họ (2,8%). Về sau Humbert (1938 - 1950) đã bổ sung, chỉnh lý để hoàn thiện việc đánh giá thành phần loài cho toàn vùng và gần

đây phải kể đến bộ Thực vật chí Campuchia, Lào và Việt Nam do Aubréville khởi xướng và chủ biên (1960 - 2001) cùng với nhiều tác giả khác. Đến nay đã công bố 31 tập nhỏ gồm 75 họ cây có mạch nghĩa là chưa đầy 21% tổng số họ đã có.

Bên cạnh đó một số họ riêng biệt đã được công bố như Orchidaceae Đông Dương của Seidenfaden (1992), Orchidaceae Việt Nam của Leonid V. Averyanov (1994), Euphorbiaceae Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Thìn (1999), Annonaceae Việt Nam của Nguyễn Tiến Bân (2000), Lamiaceae của Vũ Xuân Phương (2000), Myrsinaceae của Trần Thị Kim Liên (2002), Cyperaceae của Nguyễn Khắc Khôi (2002). Đây là những tài liệu quan trọng nhất làm cơ sở cho việc đánh giá về đa dạng phân loại thực vật Việt Nam.

Để phục vụ công tác khai thác tài nguyên Viện Điều tra Qui hoạch Rừng đã công bố 7 tập Cây gỗ rừng Việt Nam (1971 - 1988) giới thiệu khá chi tiết cùng với hình vẽ minh hoạ, đến năm 1996 công trình này được dịch ra tiếng Anh do Vũ Văn Dũng chủ biên. Trần Đình Lý và tập thể (1993) công bố 1900 cây có ích ở Việt Nam; Võ Văn Chi (1997) công bố từ điển cây thuốc Việt Nam; Viện Dược liệu


(2004) cho ra cuốn Cây thuốc và động vật làm thuốc, hay 20 tập viết về Tài nguyên Thực vật Đông Nam ¸ (1991-2003) do các nhà khoa học các nước Đông Nam ¸ công bố,...

Bên cạnh những công trình mang tính chất chung cho cả nước hay ít ra một nửa đất nước, có nhiều công trình nghiên cứu khu hệ thực vật từng vùng được công bố chính thức như hệ thực vật Tây Nguyên đã công bố 3754 loài thực vật có mạch do Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1984); Danh lục thực vật Phú Quốc của Phạm Hoàng Hộ (1985) công bố 793 loài thực vật có mạch trong một diện tích 592 km2; Lê Trần Chấn và cộng sự (1990) về hệ thực vật Lâm Sơn, Lương Sơn (Hoà Bình); Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời (1998) đã giới thiệu 2024 loài thực vật bậc cao, 771 chi, 200 họ thuộc 6 ngành của vùng núi cao Sa Pa - Phan Si Pan, hay một loạt bài báo đa dạng thành phần loài ở vườn Quốc gia Cúc Phương, vùng núi đá vôi Hoà Bình, núi đá vôi Sơn La, Khu bảo tồn Na Hang của tỉnh Tuyên Quang, vùng núi cao Sa Pa - Phan Si Pan, vùng ven biển Nam Trung Bộ, vườn Quốc gia Ba Bể, Cát Bà

, Bến En, Pù Mát, Phong Nha, Cát Tiên, Yok Đôn, Phong Nha - Kẻ Bàng, Hoàng Liên... do Nguyễn Nghĩa Thìn cùng một số tác giả khác công bố trong những năm gần đây 1995-2003. Ngoài những bài báo công bố, tác giả cùng Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Bá Thụ đã công bố cuốn sách "Tính đa dạng thực vật Cúc Phương" (1976), cùng Mai Văn Phô công bố cuốn "Đa dạng sinh học khu hệ Nấm và Thực vật ở Vườn Quốc gia Bạch Mã" (2003) và cùng với Nguyễn Thanh Nhàn (2004) đã công bố cuốn “Đa dạng thực vật ở Vườn Quốc gia Pù Mát, Nghệ An”, “Đa dạng thực vật ở Khu BTTN Na Hang - Tuyên Quang”.

Trên cơ sở các bộ thực vật chí, các danh lục thực vật của từng vùng, việc

đánh giá tính đa dạng hệ thực vật của cả nước hay từng vùng cũng đã được các tác giả đề cập đến dưới các mức độ khác nhau, trên những nhận định khác nhau.

Về đa dạng các đơn vị phân loại: Trên phạm vi cả nước Nguyễn Tiến Bân (1990) đã thống kê và đi đến kết luận thực vật Hạt kín trong hệ thực vật Việt Nam hiện biết 8500 loài, 2050 chi trong đó lớp Hai lá mầm 1590 chi và trên 6300 loài và lớp Một lá mầm 460 chi với 2200 loài. Phan Kế Lộc (1996) đã tổng kết hệ thực vật Việt Nam có 9628 loài cây hoang dại có mạch, 2010 chi, 291 họ, 733 loài cây trồng,


như vậy tổng số loài lên tới 10361 loài, 2256 chi, 305 họ chiếm 4%, 15% và 57% tổng số các loài, chi và họ của thế giới. Ngành Hạt kín chiếm 92,47% tổng số loài, 92,48% tổng số chi và 85,57% tổng số họ. Ngành Dương xỉ kém đa dạng hơn theo tỷ lệ 6,45%, 6,27%, 9,97% về loài, chi, họ. Ngành Thông đất đứng thứ 3 (0,58%) tiếp đến là ngành Hạt trần (0,47%) hai ngành còn lại không đáng kể về họ, chi và loài. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã tổng hợp và chỉnh lý các tên theo hệ thống Brummitt (1992) đã chỉ ra hệ thực vật Việt Nam hiện biết 11.178 loài, 2582 chi, 395 họ thực vật bậc cao và 30 họ có trên 100 loài với tổng số 5732 loài chiếm 51,3% tổng số loài của hệ thực vật.

1.2.1.3. Khu BTTN Chạm Chu

Theo các nguồn tài liệu mà chúng tôi được biết từ khi thành lập khu BTTN Chạm Chu đến nay chỉ có một vài công trình nghiên cứu như “Dự án xây dựng Khu BTTN Chạm Chu - tỉnh Tuyên Quang” của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tuyên Quang (2001) đã đưa ra thành phần loài thực vật thuộc 2 ngành Hạt trần và Hạt kín là 206 loài thuộc 49 họ, còn các loài thực vật sinh sản bằng bảo tử thì không thấy đề cập

đến hay “Thông tin về các khu bảo vệ hiện có và đề xuất ở Việt Nam” [4] cũng đưa ra trên 200 loài thuộc 57 họ (chủ yếu là các loài cây gỗ). Bên cạnh đó, còn có công trình của Đặng Ngọc Cần và Nguyễn Trường Sơn (1999), Dương Văn Xy và Nguyễn Nghĩa Thìn (2005) nghiên cứu về một số loài làm rau ăn đang bị khai thác cạn kiệt.


1.2.2. ®a dạng về hệ sinh thái

1.2.2.1. Trên thế giới

Có rất nhiều tác giả khác nhau đưa ra những lý luận riêng của mình về phân loại rừng phục vụ cho đánh giá đa dạng về sinh thái. Mỗi lý luận đều đưa ra những cách thức phân loại riêng theo mục đích của tác giả như:

+ Phân loại rừng dựa theo cấu trúc và ngoại mạo: đây là hướng cổ điển được nhiều người áp dụng như A. F. Schimper (1903), A. Aubréville (1949), UNESCO (1973),cơ sở phân loại của xu hướng này thường là đặc điểm phân bố, dạng sống

ưu thế, cấu trúc tầng thứ và một số đặc điểm hình thái khác của quần xã thực vật.


1.2.2.2. Việt Nam

Về đa dạng quần xã thực vật trên phạm vi cả nước: phải kể đến công trình nổi tiếng của Thái Văn Trừng (1963 - 1978) về thảm thực vật Việt Nam. Dựa trên quan

điểm sinh thái phát sinh quần thể, tác giả đã phân chia thảm thực vật Việt Nam thành các kiểu phụ, kiểu trái và thấp nhất các ưu hợp. Trong các yếu tố phát sinh thì khí hậu là yếu tố phát sinh ra kiểu thực vật, còn các yếu tố địa lý, địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, khu hệ thực vật và con người là yếu tố phát sinh của các kiểu phụ, kiểu trái và ưu hợp,

Đối với mỗi miền có những tác phẩm lớn: ở miền Nam có công trình thảm thực vật nam Trung Bộ của Schmid (1974). Ngoài điều kiện khí hậu với chế độ thoát nước khác nhau, các tiêu chuẩn phân biệt các quần xã là sự phân hoá khí hậu, thành phần thực vật đai cao. Tác giả xác nhận các loài thuộc về hệ thực vật Malêzi ở đai thấp dưới 600m còn các loài thuộc hệ thực vật Bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa ở

đai trên 1200m, từ 600 - 1200m được coi là đai chuyển tiếp. ë miền Bắc có công trình của Trần Ngũ Phương (1970) đã chia các đai trên cơ sở độ cao, sau đó kiểu dựa vào điều kiện địa hình và tính chất sinh thái, các kiểu khu vực dựa vào thành phần thực vật.

Năm 1995, Nguyễn Vạn Thường xây dựng bản đồ thảm thực vật Bắc Trung Bộ đã chia 4 vùng sinh thái chính căn cứ vào độ cao so với mặt biển: < 700m nhiệt

đới ẩm, < 700m nhiệt đới ẩm có nửa mùa khô, < 700m hơi khô có mùa mưa rõ và 800 - 1500m nhiệt đới ẩm. Có thể nói, đó là sơ đồ tổng quát nhất về thảm thực vật Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Mãi năm 1985, theo cách phân loại mới của UNESCO (1973) Phan Kế Lộc đã vận dụng thang phân loại đó để xây dựng thang phân loại thảm thực vật Việt Nam thành 5 lớp quần hệ, 15 dưới lớp, 32 nhóm quần hệ, 77 quần hệ khác nhau. Cách phân loại đó đã được Nguyễn Nghĩa Thìn áp dụng (1994 - 1996).

Đối với các khu bảo tồn: Năm 1995, Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự đã nghiên cứu các quần xã thực vật và xây dựng bản đồ thảm thực vật Vườn Quốc gia Cúc Phương, cùng năm đó có một số thông báo của Vũ Văn Dũng về các kiểu thảm thực vật ở Khu Bảo tồn Thiên nhiên Vũ Quang, của Nguyễn Đức Ngắn, Lê Xuân ¸i


về các kiểu thảm thực vật Côn Đảo, của Nguyễn Duy Chuyên về các kiểu thảm thực vật ở các khu bảo tồn và Vườn Quốc gia các tỉnh miền Nam Việt Nam, của Trần Ngọc Bút về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Cát Bà, Lê Đức Giang về các kiểu thảm thực vật vườn quốc gia Bến En, của Huỳnh Văn Kéo về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Bạch Mã, của Võ Văn Bền về các kiểu thảm thực vật Đảo Phú Quốc, của Đặng Huy Huỳnh và cộng sự về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Nam Cát Tiên, Đỗ Minh Tiến về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Tam

Đảo, Bùi Văn Định, Cao Văn Sung, Phạm Đức Tiến về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Ba Bể. Những năm gần đây, Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời giới thiệu về các kiểu thảm thực vật vùng Sa Pa - Phan Si Pan (1998), Kim J.W., Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) và Nguyễn Nghĩa Thìn (1999) về các kiểu thảm ở Vườn Quốc gia Cát Bà. Gần đây nhất là những công trình của Nguyễn Nghĩa Thìn và tập thể đã công bố trong các cuốn sách: "Tính đa dạng thực vật Cúc Phương" (1976), "Đa dạng thực vật có mạch vùng núi cao Sa Pa - Phan Si Pan" (1998), "Đa dạng sinh học khu hệ Nấm và Thực vật ở Vườn Quốc gia Bạch Mã" (2003) “Đa dạng thực vật ở Vườn Quốc gia Pù Mát, Nghệ An” (2004), “Đa dạng thực vật khu BTTN Na Hang, Tuyên Quang” (2005),...

1.2.2.3. khu BTTN Chạm Chu

Theo các nguồn tài liệu mà chúng tôi được biết thì từ khi thành lập Khu BTTN chỉ có công trình “Dự án xây dựng Khu BTTN Chạm Chu” của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tuyên Quang (2001) đã đưa ra 4 kiểu rừng nguyên sinh trên núi đá và trên núi đất ở khu bảo tồn này:

+ Rừng nguyên sinh trên núi đá chủ yếu phân bố từ dãy núi Cánh Tiên đến

đỉnh Cao Đường. Đây là một hệ sinh thái điển hình cho vùng núi đá vôi Bắc Việt Nam.

+ Rừng nguyên sinh trên núi đất tập trung nhiều ở phía Tây đỉnh Chạm Chu và các khu lân cận.

+ Rừng nguyên sinh cây lá kim với ưu thế Pơ mu gặp nhiều trên đường lên

đỉnh Chạm Chu.

+ Rừng tre nứa chưa bị tác động ở khu vực Khuổi Nhàu, Khuổi Muồi,


Ngoài những nét sơ bộ về báo cáo này, chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu hơn về kiểu thảm thực vật rừng ở nơi đây.

1.2.3. Nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành hệ thực vật

Các loài thực vật cấu thành nên một HTV nào đó không chỉ khác nhau về thành phần phân loại mà còn khác nhau về sự phân bố địa lý, nguồn gốc địa lý và cả tuổi xuất hiện trong HTV.

Phân tích các yếu tố địa lý thực vật là một trong những nội dung quan trọng khi nghiên cứu một hệ thực vật hay bất kỳ một khu hệ sinh vật nào để hiểu bản chất cấu thành của nó làm cơ sở cho việc định hướng bảo tồn và dẫn giống vật nuôi, cây trồng,... Phân tích các loài thành các nhóm căn cứ vào sự giống nhau ít hay nhiều về khu phân bố của chúng. Tập hợp tất cả các loài của một HTV có khu phân bố ít nhiều giống nhau tập hợp lại thành một yếu tố địa lý. Tập hợp tất cả các yếu tố địa lý của hệ thực vật (tính %) là phổ các yếu tố địa lý của HTV đó. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành của HTV cũng rất phức tạp và phải phụ thuộc vào khả năng, ý định của từng tác giả cũng như nguồn tài liệu cho phép. Tất nhiên, người ta dựa vào kiểu phân bố,... Việc chia nhóm khu phân bố rộng hay hẹp khác nhau đều phải đảm bảo nguyên tắc chung là “mỗi yếu tố địa lý của HTV bao gồm tất cả các loài của HTV đó có khu phân bố ít nhiều giống nhau”. Các yếu tố địa lý thực vật này được phân ra làm 2 nhóm yếu tố chủ đạo là yếu tố đặc hữu và yếu tố di cư, các loài thuộc yếu tố đặc hữu thể hiện ở sự khác biệt giữa các hệ thực vật với nhau, còn các loài thuộc yếu tố di cư sẽ chỉ ra sự liên hệ giữa các hệ thực vật đó.

1.2.3.1. Việt Nam

Phân tích và đánh giá các yếu tố cấu thành hệ thực vật Việt Nam về mặt địa lý trước tiên phải kể đến các công trình của Gagnepain: “Góp phần nghiên cứu hệ thực vật Đông Dương” (1926) và “Giới thiệu về hệ thực vật Đông Dương” (1944). Theo tác giả, hệ thực vật Đông Dương bao gồm các yếu tố:

Yếu tố Trung Quốc

33,8%

Ỹu tè XÝch Kim - Himalaya

18,5%

Yếu tố Malaysia và nhiệt đới khác

15,0%

Yếu tố đặc hữu bán đảo Đông Dương

11,9%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Đánh giá tính đa dạng thực vật phía Tây Bắc khu bảo tồn thiên nhiên Chạm Chu - Tuyên Quang - 3


Yếu tố nhập nội và phân bố rộng 20,8%

Theo Pócs Tamás (1965) khi nghiên cứu hệ thực vật Bắc Việt Nam đã phân tích về phương diện địa lý thực vật của miền Bắc Việt Nam, đã phân biệt 3 nhóm các yếu tố như sau:

* Nhân tố bản địa đặc hữu

39,90 %

Đặc hữu Việt Nam

32,55 %

Đặc hữu Đông Dương

7,35 %

* Nhân tố di cư từ các vùng nhiệt đới:

55,27 %

Từ Trung Quốc

12,89 %

Từ ấn Độ và Himalaya

9,33 %

Tõ Malaysia - Indonesia

25,69 %

Từ các vùng nhiệt đới khác

7,36 %

* Nhân tố khác

4,83 %

Ôn đới

3,27 %

Thế giới

1,56 %

Tỉng:

100,00 %

* Nhân tố nhập nội, trồng trọt

3,08 %

Năm 1978, Thái Văn Trừng căn cứ vào bảng thống kê các loài của hệ thực vật Bắc Việt Nam đã cho rằng ở Việt Nam có 3 % số chi và 27,5% số loài đặc hữu. Nhưng khi thảo luận tác giả đã gộp các nhân tố di cư từ nam Trung Hoa và nhân tố

đặc hữu bản địa Việt Nam làm một và căn cứ vào khu phân bố hiện tại, nguồn gốc phát sinh của loài đó đã nâng tỷ lệ các loài đặc hữu bản địa lên 50% (tương tự 45,7% theo Gagnepain và 52,79% theo Pócs Tamás), còn yếu tố di cư chiếm tỷ lệ 39% (trong đó từ Malaysia - Indonesia là 15%, từ Hymalaya - Vân Nam - Quí Châu là 10% và từ Ên Độ - Miến Điện là 14%), các nhân tố khác theo tác giả chỉ chiếm 11% (7% nhiệt đới, 3% ôn đới và 1% thế giới), nhân tố nhập nội vẫn là 3,08%.

Năm 1999, Nguyễn Nghĩa Thìn căn cứ vào các khung phân loại của Pócs (1965) và Ngô Chính Dật (1993) đã xây dựng thang phân loại các yếu tố địa lý thực vật cho hệ thực vật Việt Nam và áp dụng cho việc sắp xếp các chi thực vật Việt Nam vào các yếu tố địa lý như sau:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/02/2023